Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia đã được áp dụng, vậy tại sao trên thị trường vẫn kinh doanh rượu, bia?
Một trong những câu hỏi cần giải đáp rõ ràng cho nhân viên y tế và cộng tác viên y tế khóm/ấp khi thực hiện các lớp tập huấn tại tuyến y tế cơ sở, đó là “Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia đã được áp dụng, vậy tại sao thị trường vẫn kinh doanh rượu bia?” để mọi người hiểu được những thông tin cơ bản về công tác phòng, chống tác hại của rượu, bia để chung tay thực hiện.

Hình minh họa trong việc đãi khách tại đám cưới miền Tây.
Nước ta nằm ở khu vực Đông Nam Á, văn hóa Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng lớn của phương Đông. Người Việt Nam coi trọng quan hệ gia tộc, làng xóm nhằm nuôi dưỡng các giá trị đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Cho nên trong xã hội hiện đại, rượu và bia là những sản phẩm vừa mang tính truyền thống, vừa là hàng hóa tiêu dùng phổ biến trong các đám, tiệc để chung vui và bắt đầu cho những câu chuyện kể.
Khởi đầu cho những niềm vui nhưng tác động tiêu cực của rượu và bia là khó lường, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, trật tự xã hội và sự phát triển bền vững như dẫn đến các vấn đề bạo lực gia đình, ảnh hưởng đến trẻ em về tư duy và nhận thức, mất năng suất lao động kéo theo các tệ nạn xã hội khác gia tăng do không làm chủ được hành vi sau khi sử dụng bia, rượu quá mức.
Để kiểm soát những tiêu cực đó, Việt Nam đã ban hành Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia (năm 2019, có hiệu lực từ 2020). Nhưng một thực tế dễ thấy là thị trường rượu, bia vẫn phát triển và câu hỏi được đặt ra: “Tại sao luật đã áp dụng nhưng rượu, bia vẫn tiếp tục được kinh doanh hợp pháp?”, nếu trả lời câu nghi vấn này sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia.
Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia (Luật số 44/2019/QH14, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2020) được thiết kế để giảm nhu cầu và quản lý rủi ro chứ không đặt mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn việc sản xuất, kinh doanh hợp pháp.
Luật quy định nhiều biện pháp: Cấm bán cho người dưới 18 tuổi; siết quảng cáo (nhất là hướng tới trẻ vị thành niên); hạn chế điểm bán gần trường học, bệnh viện; và đặt điều kiện chặt chẽ cho bán qua thương mại điện tử (xác thực tuổi, kiểm soát giao nhận).
Nói cách khác, Nhà nước định hướng tiêu dùng an toàn, có trách nhiệm chứ không chuyển sang cơ chế cấm đoán toàn bộ thị trường hợp pháp. Một trụ cột đi kèm là cơ chế xử phạt mạnh tay với hành vi gây hại, đặc biệt là uống rượu bia khi lái xe: Nghị định 100/2019/NĐ-CP đưa mức phạt rất cao và theo ngưỡng đo nồng độ cồn; từ 1-1-2025, Nghị định 168/2024/NĐ-CP còn bổ sung cơ chế trừ điểm bằng lái để tăng tính răn đe và giám sát tuân thủ, Nghị định 117/2020/NĐ-CP đã quy định mức phạt hành vi bán cho người chưa đủ 18 tuổi.
Từ lâu, rượu bia đã trở thành một phần của đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam. Thật vậy, nhu cầu tiêu thụ rượu bia ở Việt Nam vẫn ở mức cao, Nhà nước không thể cấm hoàn toàn, mà phải điều tiết để vừa hạn chế tác hại, vừa duy trì lợi ích kinh tế - văn hóa.
Chính nhu cầu lớn đã tạo động lực cho các doanh nghiệp duy trì sản xuất và phân phối những sản phẩm bia 0.0% và đồ uống ít/không cồn, thực hiện tài trợ sự kiện thể thao - lối sống lành mạnh (phù hợp khung pháp lý quảng cáo). Luật có thể siết chặt hành vi tiêu dùng và bán hàng, nhưng khi nhu cầu xã hội còn, thị trường chắc chắn vẫn tồn tại.
Còn nhu cầu thì sẽ còn nguồn cung ứng, nên chúng ta hãy nhìn thẳng thực tế: Không có quy định về “xóa” nhu cầu ngay lập tức. Chúng ta chỉ đang làm chậm, làm nhỏ, làm an toàn hơn nhu cầu về “nhậu” thông qua quản lý rủi ro, đánh thuế điều tiết và thay đổi hành vi để lợi ích sức khỏe cộng đồng vượt trội so với chi phí xã hội.
Rượu, bia không chỉ gây hại cho sức khỏe cá nhân, mà còn để lại hệ quả nặng nề cho gia đình, xã hội và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, các chính sách như: Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia (năm 2019), Nghị định 100/2019/NĐ-CP và lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt là cần thiết để hạn chế tiêu thụ, giảm thiểu gánh nặng xã hội.