Luật sư gặp bị cáo ở trại tạm giam: Tòa án có quyền cấp phép hay chỉ giám sát?
Theo quy định pháp luật, luật sư bào chữa có quyền gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam, tòa án chỉ có quyền phối hợp giám sát cuộc gặp giữa bị cáo với luật sư trong trường hợp cần thiết.
Mấy ngày qua, những người hành nghề luật xôn xao về văn bản của TAND khu vực 1 - Lâm Đồng về việc không chấp thuận cho luật sư gặp bị cáo với lý do: "Do tính chất của vụ án và để vụ án được xem xét, giải quyết một cách khách quan, toàn diện, đảm bảo đúng quy định của pháp luật, nhằm tránh oan sai cũng như không bỏ lọt tội phạm".
Sự việc này có thể là hy hữu nhưng dưới góc độ pháp lý thì có nhiều vấn đề cần bàn.
Không có quy định luật sư phải xin tòa
Pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền được bào chữa cho người bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo trong suốt quá trình tiến hành tố tụng. Cụ thể, căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Quyền này cũng được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Cụ thể, Điều 16 BLTTHS 2015 đã quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Theo đó, người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

TS - luật sư Nguyễn Thị Kim Vinh, nguyên thẩm phán TAND Tối cao.
Để thực hiện quyền bào chữa, người bào chữa được pháp luật trao quyền tiếp cận, gặp mặt người bị buộc tội. Tại điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 quy định người bào chữa có quyền "gặp, hỏi người bị buộc tội" và điểm d khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam cũng quy định người bị tạm giam, tạm giữ có quyền được gặp người bào chữa.
Về thủ tục, BLTTHS và các văn bản pháp luật liên quan không hề quy định để được gặp bị can bị tạm giam thì luật sư phải xin phép, xin lịch hẹn từ giám thị trại giam hay sự cho phép của cơ quan đang thụ lý vụ án. Để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, thẻ luật sư hoặc thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc căn cước công dân theo quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2015.

Một bị cáo trao đổi với luật sư tại tòa. Ảnh chỉ có tính chất minh họa, không liên quan đến vụ án mà bài viết đề cập Ảnh minh họa: VŨ HỘI
Tòa án chỉ có quyền phối hợp để giám sát cuộc gặp
Trong vụ việc tại Lâm Đồng, khi luật sư yêu cầu được gặp bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án, thẩm phán có thẩm quyền xét xử vụ án đã gửi văn bản đến trại tạm giam nơi bị cáo đang bị tạm giam với nội dung không chấp nhận cho luật sư thăm gặp bị cáo tại giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Với những căn cứ đã nói ở trên, có thể thấy rằng văn bản với nội dung nêu trên chưa phù hợp với quy định pháp luật hiện hành và đã cản trở hoạt động hành nghề của luật sư, trực tiếp xâm phạm nguyên tắc "Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" theo Điều 16 BLTTHS 2015.
Khoản 3 Điều 22 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam quy định: Người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của BLTTHS và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ.... Khoản 2 Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và VKS có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam cũng quy định: "Khi nhận được văn bản thông báo người bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật".
Có thể thấy, pháp luật không giới hạn số lần, giai đoạn người bào chữa được gặp, tiếp xúc làm việc với người bị tạm giam, tạm giữ.
Hơn nữa, tại khoản 4 Điều 22 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, chỉ có Thủ trưởng cơ sở giam giữ mới có quyền không đồng ý cho người bào chữa gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong một số trường hợp và phải nêu rõ lý do.
Các trường hợp đó có thể kể đến như: người bào chữa không xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa; trong trường hợp khẩn cấp để bảo vệ an toàn cơ sở giam giữ; người bị tạm giam không đồng ý thăm gặp; người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang bị kỷ luật...
TAND có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chỉ có quyền phối hợp cùng cơ sở giam giữ tổ chức giám sát cuộc gặp trong trường hợp cần thiết theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018, chứ không có quyền can thiệp vào việc có đồng ý cho phép người bị tạm giam, tạm giữ gặp người bào chữa không.
Cụ thể, theo khoản 3 Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018, trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Nếu người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người bào chữa có hành vi vi phạm nội quy cơ sở giam giữ hoặc cản trở việc giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền giám sát phải dừng ngay cuộc gặp và lập biên bản, báo cáo với thủ trưởng cơ sở giam giữ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết để xử lý.
Có thể thấy, việc thẩm phán ban hành văn bản không cho luật sư gặp bị cáo trong trại tạm giam trước phiên xét xử sơ thẩm đã vượt quá thẩm quyền và xâm phạm nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự. Quyền cho phép người bào chữa gặp bị can, bị cáo hay không chỉ thuộc về thủ trưởng cơ sở giam giữ, không thuộc về tòa án thụ lý vụ án.
Thực tiễn hành nghề cho thấy, vẫn tồn tại nhiều trường hợp luật sư hạn chế, không được gặp hoặc tiếp xúc với người bị tạm giữ, tạm giam vì nhiều lý do khác nhau. Mặc dù pháp luật không quy định. Tuy nhiên khi muốn thực hiện quyền này, luật sư thường phải làm văn bản đề nghị được phép gặp thân chủ, dẫn đến quá trình hành nghề bị gián đoạn. Điều này làm suy giảm tính toàn vẹn của quy định pháp luật về quyền thăm gặp bị can, bị cáo của luật sư và không bảo đảm thực thi đầy đủ quyền bào chữa theo quy định.
Như PLOđã đưa tin, ngày 27-11, TAND khu vực 1 - Lâm Đồng đã mở phiên tòa xét xử bị cáo là Võ Quang Hưng về tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, phiên tòa đã tạm ngừng và HĐXX thông báo luật sư muốn gặp bị cáo thì làm đơn gửi tòa.
Đáng chú ý, trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án này, tòa án từng có văn bản không chấp thuận cho luật sư Việt Anh - người bào chữa cho bị cáo Hưng gặp bị cáo.
Sau khi nhận được văn bản của tòa, luật sư đã có đơn kiến nghị về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động hành nghề của luật sư gửi đến Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Trong ngày 27-11, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã có văn bản về việc xem xét, giải quyết kiến nghị của luật sư gửi đến Chánh án TAND Tối cao và Chánh án TAND tỉnh Lâm Đồng.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng nếu phản ánh của luật sư Việt Anh là đúng thì văn bản của tòa án đã không phù hợp với nhiều quy định pháp luật về quyền bào chữa của luật sư. Cạnh đó, bị cáo Hưng chỉ bị truy tố về tội trộm cắp tài sản và không thuộc trường hợp các vụ án tham nhũng, xâm phạm an ninh quốc gia.
Việc không cho luật sư gặp bị cáo là không có cơ sở pháp lý; thậm chí còn ngăn cản quyền gặp bị cáo của luật sư tại phiên tòa, đi ngược lại các nguyên tắc cơ bản được quy định tại BLTTHS.











