Lý do vợ chồng người Úc đưa con sang Việt Nam phẫu thuật
Sau 1 tháng tìm hiểu về kỹ thuật mổ nội soi một lỗ qua rốn điều trị u nang ống mật chủ, cặp vợ chồng người Úc đã quyết định đưa con gái 4 tuổi sang Việt Nam phẫu thuật, chữa bệnh
Ngày 5-12, PGS-TS-BS Trần Ngọc Sơn, Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn (Hà Nội), cho biết cách đây ít ngày các bác sĩ bệnh viện đã điều trị thành công cho bệnh nhi 4 tuổi (quốc tịch Úc) bị nang ống mật chủ bằng phương pháp mổ nội soi một lỗ qua rốn.
Theo PGS Sơn, trước đó, gia đình người Úc (đang làm việc tại Bali, Indonesia) phát hiện con gái 4 tuổi đi phân nhạt màu kèm đau bụng và nôn. Gia đình đưa con đi khám thì phát hiện trẻ bị u nang ống mật chủ. Tại bệnh viện, gia đình được tư vấn phẫu thuật mổ mở để cắt nang.
Do con gái còn nhỏ, gia đình không muốn con đau đớn, để lại sẹo dài mất thẩm mỹ nên đã tìm hiểu các kỹ thuật mổ hiện đại ở một số nước trên thế giới. Sau khi đọc tài liệu về kỹ thuật mổ nội soi một lỗ điều trị u nang ống mật chủ của Việt Nam được PGS Sơn công bố trên tạp chí khoa học quốc tế, cặp vợ chồng người Úc đã hỏi thông tin về bác sĩ Sơn từ các bác sĩ tại Indonesia.
Được cung cấp thông tin và những thành công từ các ca mổ nội soi một lỗ điều trị u mang ống mật chủ của bác sĩ Sơn, hai vợ chồng người Úc đã gửi thư điện tử tới PGS Sơn. Sau 4 lần trao đổi thông tin, cuối tháng 10 vừa qua, cặp vợ chồng này đã quyết định đưa con đến Việt Nam chữa bệnh.
Tiếp nhận bệnh nhân, bác sĩ Sơn cho biết bệnh nhi này có ống mật dài 2 cm, giãn thành hình thoi. Bình thường nang mật chủ giãn thành nang, ống mật chỉ dài 2-3 mm. Với bệnh nhi này nếu không phẫu thuật kịp thời sẽ dễ gây ra biến chứng. Bệnh nhân được chỉ định nội soi một lỗ cắt u nang ống mạch chủ tại Trung tâm kỹ thuật cao, Bệnh viện Xanh Pôn.
"Nội soi một lỗ đi qua lỗ rốn với vết rạch dưới 2 cm nên không để lại sẹo. Ưu điểm của phương pháp này là ít đau, ít gây tổn thương thành bụng, vết thương nhanh lành. Sau phẫu thuật, bệnh nhi phục hồi nhanh và đã có thể chạy nhảy. Bệnh sẽ không tái phát. Dự kiến, trong tuần này bệnh nhân sẽ được xuất viện về nước. Do yếu tố địa lý nên sau phẫu thuật bệnh nhân có thể tái khám tại bệnh viện địa phương"- PGS Sơn nói.
Nói về việc cặp vợ chồng người nước ngoài lựa chọn Việt Nam chữa bệnh cho con, PGS Sơn cho biết ban đầu gia đình cũng băn khoăn, lo lắng vì họ chưa đến Việt Nam bao giờ. Tuy nhiên, sau khi được tiếp nhận, điều trị gia đình bệnh nhân vô cùng bất ngờ bởi trang thiết bị, chất lượng điều trị, thái độ phục vụ tại Việt Nam và nói rằng dịch vụ ở đây tuyệt vời trên cả mong đợi. Gia đình bệnh nhân cũng chia sẻ họ rất hạnh phúc vì đã lựa chọn đúng đắn.
Lãnh đạo Bệnh viện Xanh Pôn cho biết trước bệnh nhi người nước ngoài này, trong hơn 10 năm qua PGS Sơn đã phẫu thuật hơn 300 trường hợp tương tự.
Hiện Trung tâm kỹ thuật cao, Bệnh viện Xanh Pôn là một trong hai trung tâm trên thế giới ứng dụng thành công phẫu thuật nội soi một lỗ điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em với kết quả tốt, không để lại biến chứng.
Việc thực hiện thành công kỹ thuật này đã đánh dấu bước tiến mới của nền phẫu thuật nhi ở Việt Nam và mang tầm quốc tế. PGS Trần Ngọc Sơn cũng là 1 trong 2 bác sĩ đi đầu thế giới thực hiện kỹ thuật này.
Nang ống mật chủ là bệnh lý về gan mật, điều trị ngoại khoa phổ biến nhất ở trẻ em và gặp nhiều ở các nước khu vực Châu Á, nhất là Đông Nam Á. Nguyên nhân chủ yếu là bẩm sinh, dị dạng này hình thành ngay từ khi còn là bào thai. Nếu không điều trị, sẽ dẫn đến tình trạng trẻ bị viêm mật tái diễn, có thể âm thầm hoặc có biến chứng. Nếu để lâu sẽ dẫn đến xơ gan, viêm mật cấp, đau bụng, sốt, gây tắc mật, vàng da… Trường hợp nặng gây viêm tụy, thủng, hoại tử phúc mạc tử, thậm chí tử vong.
Ở trẻ sơ sinh bị nang ống mật chủ có thể có biểu hiện rõ rệt là vàng da. Trẻ sơ sinh thường bị tắc nghẽn đường mật không liên tục hoặc các đợt viêm mật, viêm tụy tái phát. Ở trẻ từ 2 tuổi, triệu chứng ban đầu chủ yếu là đau bụng vài ngày, nước tiểu bạc màu, phân vàng... Ở người lớn, dấu hiệu điển hình là đau bụng, vàng da và sờ thấy khối u bụng trên bên phải. Tuy nhiên, những dấu hiệu này chỉ được tìm thấy ở 10-20% những người bị bệnh.