'Made in' hay 'made by' Vietnam?

Những hành vi nhập hàng nước ngoài rồi dán nhãn 'made in Vietnam' không chỉ là hành vi lừa dối mà đó còn là sự phản bội niềm tin của khách hàng. Bởi vậy, dễ hiểu những phản ứng quyết liệt của xã hội khi những hành vi này bị phát giác. Người tiêu dùng tẩy chay không chỉ sản phẩm bị phát hiện mà cả các sản phẩm khác liên quan thương hiệu của doanh nghiệp, như trường hợp của thương hiệu Asanzo mới đây.

Nhưng câu chuyện chiếc ti vi Asanzo cũng đang gây ra những tranh luận liên quan việc một sản phẩm được tạo ra từ hầu hết linh kiện nhập khẩu lại dán nhãn “made in Vietnam”. Các cơ quan quản lý có cần xây dựng các quy chuẩn đối với hàng hóa được quyền gắn nhãn “made in Vietnam”? Và liệu việc đặt ra các tiêu chuẩn này có thực sự thúc đẩy nền sản xuất trong nước?

Thế nào là “hàng Việt”?

Liên quan khái niệm “hàng Việt” có ba cách tiếp cận cơ bản: hàng có xuất xứ Việt Nam (of Vietnam origin), hàng sản xuất tại Việt Nam (made in Vietnam), và hàng của Việt Nam (product of Vietnam) hay do Việt Nam sản xuất (made by Vietnam).

Hàng xuất xứ Việt Nam thường được xác định bởi các cơ quan quản lý nhà nước nhằm mục đích cho phép nhà xuất khẩu hưởng thuế quan ưu đãi của nước nhập khẩu. Các tiêu chí xác định một mặt hàng có được coi là có xuất xứ từ Việt Nam hay không được quy định cụ thể trong các hiệp định thương mại với các quốc gia liên quan. Các cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào các tiêu chí này để cấp chứng nhận xuất xứ Việt Nam cho các lô hàng xuất khẩu vào thị trường đối tác ký kết.

Có nhiều tiêu chí và phương pháp xác định xuất xứ. Thông thường một mặt hàng sẽ được công nhận xuất xứ khi tối thiểu 30-40% hàm lượng chế biến được thực hiện tại quốc gia. Ngoài ra, với từng nhóm hàng có thể có những quy định riêng. Ví dụ, nông sản chỉ được chứng nhận xuất xứ khi được nuôi, trồng, còn thủy sản phải được đánh bắt tại vùng biển quốc gia đó. Hoặc hàng dệt may có thể phải được làm từ vải hoặc sợi, hoặc đơn giản chỉ cần cắt may trong nước, tùy quy định trong hiệp định.

Tóm lại việc xác định một mặt hàng xuất xứ Việt Nam đã được quy định chặt chẽ trong các hiệp định quốc tế. Việc chứng nhận được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền và đơn thuần vì mục đích thương mại.

Trong khi đó, việc một sản phẩm như thế nào sẽ được quyền dán nhãn sản xuất tại Việt Nam (made in Vietnam) chưa được quy định bởi các cơ quan quản lý nhà nước. Các quốc gia cũng thường chỉ dành quan tâm tới việc xây dựng các tiêu chuẩn đối với một sản phẩm được sản xuất và lưu hành trên thị trường mình.

Việc gắn nhãn địa điểm sản xuất theo thông lệ thể hiện địa điểm nơi sản phẩm được hoàn tất để đưa ra thị trường. Ký hiệu này chỉ có giá trị cung cấp thông tin về nơi sản phẩm được hoàn thiện những khâu cuối, lắp ráp, bao bì đóng gói thành sản phẩm hoàn chỉnh. Nó không gắn với những lợi ích thương mại như chứng nhận xuất xứ. Một sản phẩm gắn nhãn “made in Vietnam” nhưng nếu không đáp ứng tỷ trọng giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam thì cũng không được hưởng các ưu đãi thuế khi xuất khẩu vào các thị trường đối tác theo hiệp định đã ký.

“Made in” không còn nhiều ý nghĩa

Trước kia, khi các nền sản xuất vẫn còn bị giới hạn trong đường biên giới quốc gia, hàng hóa thường được sản xuất gần như toàn bộ trên lãnh thổ của quốc gia. Cụm từ “made in” ngày đó hàm chứa nhiều thông điệp hơn là chỉ dẫn xuất xứ của hàng hóa. Nó đại diện những giá trị sản xuất truyền thống của quốc gia, tiềm lực công nghệ... khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Đồng thời chính những sản phẩm có chất lượng này sẽ hình thành nên thương hiệu quốc gia.

Tuy nhiên, toàn cầu hóa đã khiến một sản phẩm là kết quả của một chuỗi cung ứng từ nhiều quốc gia và kết thúc ở bất kỳ một quốc gia nào trong chuỗi cung ứng đó mà nhà sản xuất thấy phù hợp. Người tiêu dùng giờ đây quan tâm chủ yếu tới thương hiệu của sản phẩm hay nói cách khác là sản phẩm được tạo ra bởi nhà sản xuất nào. Người dùng điện thoại iPhone, Samsung... không quan tâm nhiều việc chúng được làm ra ở Trung Quốc hay Việt Nam. Tương tự như vậy, việc Việt Nam mỗi năm xuất khẩu lượng điện thoại di động trị giá mấy chục tỉ đô la Mỹ không khiến chúng ta được coi là “nhà sản xuất thiết bị di động” mà chỉ đơn thuần là cơ sở sản xuất lớn nhất thế giới của Samsung.

Hoặc ngược lại, hiện Asanzo nhập gần như toàn bộ linh kiện từ Trung Quốc để tạo ra sản phẩm ti vi mang thương hiệu này. Nhưng giả sử, phần lớn số linh kiện đó được sản xuất trong các nhà máy do Asanzo đầu tư tại Trung Quốc thì có lẽ người tiêu dùng không có phản ứng phẫn nộ như hiện nay khi dùng một sản phẩm mà mình đinh ninh là hàng Việt Nam nhưng hóa ra chỉ là lắp ráp từ linh kiện nước ngoài.

Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, người tiêu dùng thường không quan trọng sản phẩm được làm ra ở đâu mà quan trọng là nó được phân phối ở thị trường nào hoặc tạo ra bởi nhà sản xuất nào. Hàng hóa tiêu thụ trên thị trường phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật về vệ sinh, an toàn, môi trường... bất kể nó được sản xuất trong nước hay nhập khẩu. Các tập đoàn đa quốc gia cũng thường đưa ra cam kết chất lượng toàn cầu để đảm bảo hàng hóa của họ có thể tiếp cận mọi thị trường bất kể được sản xuất tại đâu. Đó là lý do ta thấy các cửa hàng “đồ nhập”, “đồ xách tay” từ Mỹ, Nhật, EU... nhan nhản trên mạng lẫn trên đường phố mặc dù những sản phẩm bán ở đó được sản xuất tại Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia...

Có thể sắp tới, các cơ quan quản lý sẽ đưa ra các quy định quản lý nhằm xác định những mặt hàng thế nào thì được gắn mác “made in Vietnam”. Nhưng như phân tích ở trên, công việc phức tạp và sẽ khá tốn kém này mang giá trị tinh thần nhiều hơn là thương mại, cũng như không có nhiều ý nghĩa trong việc tạo thêm động lực phát triển sản xuất trong nước. Bản chất của chuỗi phân công lao động toàn cầu ngày nay là sản phẩm được làm ra bởi ai (made by) chứ không phải ở đâu (made in). Một thời gian dài, chúng ta đã đánh đồng hai khái niệm này.

Chúng ta hy vọng “đi tắt đón đầu”, thực hiện “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” dựa vào nguồn lực bên ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài trong những lĩnh vực công nghệ được chiều chuộng bằng các chính sách ưu đãi, với hy vọng họ sẽ chuyển giao công nghệ cho chúng ta. Tuy nhiên, các nhà sản xuất điện tử, xe máy, ô tô... đến rồi bỏ đi ngay khi các hàng rào bảo hộ thuế quan bị dỡ bỏ mà không hề có chuyển giao công nghệ như chúng ta chờ đợi.

Sau 30 năm thực hiện nội địa hóa với bao nguồn lực xã hội, ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam vẫn chưa nắm bắt được công nghệ động cơ. Chiếc xe du lịch thương hiệu Việt đầu tiên sắp ra đời bằng vốn và sức lao động của người Việt nhưng hoàn toàn bằng công nghệ, máy móc nước ngoài từ các khâu kỹ thuật tới quản lý. Những chiếc xe, ti vi, điện thoại... kể trên đều là những sản phẩm có giá trị thương mại cao, tạo công ăn việc làm và đóng góp cho ngân sách. Nhưng không thể nhìn vào kim ngạch thương mại và dòng chữ “made in Vietnam” để tự hào rằng đó là những sản phẩm Việt Nam.

* * *

Chi Mai

Nguồn Saigon Times: https://www.thesaigontimes.vn/291550/made-in-hay-made-by-vietnam.html