Mái ấm vườn hoang
Nhà ông Phệnh cách nhà nội tôi một cái hàng rào thưa. Mỗi sáng thức dậy đứng bên hiên nhìn qua, tôi đã thấy ông lúi húi làm vườn. Cái ấm nhôm cáu đen đựng nước chè tươi để gần đó, nghỉ tay, ông rót ra một ly uống ừng ực rồi lại cắm mặt làm cho đến khi mặt trời đứng bóng.
Ông Phệnh sống một mình, không vợ, không con, nhưng người xóm tôi vẫn nói vui rằng ông có một đứa con, “đứa con” này là con Vâu, con chó bị người ta vất ngoài chợ, tình cờ thấy ông đi qua nó lẵng nhẵng bám theo về nhà. Con Vâu ở với ông Phệnh đã mười năm, nhưng cái chứng ghẻ lở vẫn đeo đẳng. Nó ghẻ đến độ những mảng lông trên lưng trụi lụi, thay vào đó lớp da cóc cáy. Xấu xí là vậy, nhưng ông Phệnh cưng con Vâu như trứng mỏng.
Ông Phệnh lầm lì, ít nói, cả ngày quần quật ngoài vườn, nghỉ tay ông lại ôm con Vâu mà hôn hít, thủ thỉ. Trong xóm, người quý ông Phệnh nhất phải kể đến bà tôi. Bà thương ông cái nết hiền lành, chăm chỉ. Nhắc tới ông Phệnh, bà tôi có một câu muôn thuở: “Cái thằng hiền lành, giỏi giang, đàn bà con gái làng này đứa nào có duyên gặp nó thì sướng một đời”. Lần nào nghe câu đó ông Phệnh cũng cười, mặt cặm xuống chân vẻ ngại ngần. Ông biết ông xấu, gương mặt khó coi với một bên má lõm vào như cái hốc khiến con mắt cũng bị kéo xuống để lộ con ngươi lúc nào cũng như đang trợn trừng người khác. Một sự tàn nhẫn của số phận. Đã vậy, thân hình lại đen như củ súng, quanh năm chỉ hai bộ đồ vải thô bạc phếch, giặt xong phơi lên, có khi chưa khô đã lấy xuống mặc tiếp.
Bà tôi thấy ông Phệnh thui thủi một mình thì thương, trong xóm có cô nào quá lứa, chưa chồng bà cũng mon men ướm hỏi. Xóm trên có cô Liếng, cô Dành, xóm dưới có cô Nhu, cô Thỏa, cô nào cũng xấp xỉ bốn mươi, lại không xinh nhưng nghe bà tôi nhắc đến ông Phệnh, cô nào, cô nấy ngúng nguẩy: “Ai mà ưng cái người kỳ dị đó, con ở vậy sướng hơn!”. Bà tôi riết rồi cũng hết hy vọng kiếm cho ông Phệnh một cô vợ. Ông Phệnh như cũng hiểu, chỉ cười buồn khi nghe tin bà lại đánh tiếng nhắm nhe mối khác.
Bà tôi nấu gì ngon cũng múc một tô biểu tôi bưng qua cho ông Phệnh, khi tô canh khoai mỡ, lúc lại chén chè đậu đỏ, có vài cái bánh bột mì chiên bà cũng biểu tôi đem qua. Tôi thích được bà sai qua ông Phệnh để ngồi đong đưa trên cái võng coi ông cưng nựng con Vâu, ông gọi nó bằng con, xưng ba cứ như cha con ruột.
Ánh nắng xiên khoai đến tận hiên ông tôi vẫn chưa về, ông qua làng bên đánh cờ với bạn già. Tôi ngồi trên chiếc giường tre gãy vạt nhổ tóc sâu cho bà, vừa nhổ vừa trông chừng đàn gà mổ nong lúa trong sân. Bên kia vườn nhà ông Phệnh im ắng, ông đi đâu từ sớm. Bỗng cánh cổng tre ken két mở ra, ông Phệnh lao vào, trên tay ông một con vật lông xám rũ xuống không rõ là con gì. Tôi chạy đến bên hàng rào nhón chân nhìn cho rõ, thấy tôi ông kêu lên “Mau qua bác nhờ chút đi!”.
Tôi qua đến nơi thấy con vật kia đã nằm thõng thượt trên cái sân gạch, hóa ra đó là một con khỉ, hai chân sau bê bết máu, mắt nhắm nghiền, từ miệng nó phát ra tiếng chéc chéc yếu ớt. “Coi có bông băng, đem qua cho bác!”.
Tôi chạy về, đem qua cuộn băng còn sót lại của bà. Ông Phệnh lau rửa vết thương cho con khỉ, lúc này tôi mới để ý sau lưng ông lấp ló một con khỉ nữa. “Con này bị sập bẫy heo rừng, còn con kia là bạn nó theo về tới đây, đuổi cách gì cũng không chịu đi”. Ông Phệnh băng bó cho con khỉ xong, để nó nằm vào tấm áo cũ lót bên trong cái mủng, con khỉ bạn lúc này mới mon men lại gần, sờ vào người con kia, mắt mũi rơm rớm. “Giờ bác tính sao?” - tôi hỏi. “Để nó ở đây chừng nào lành thì đem hai đứa nó về rừng chứ sao giờ”.
Con khỉ mới đó đã dạn dĩ. Nó chạy quanh sân ngó nghiêng rồi lại gần cào vào tay ông Phệnh như muốn cảm ơn. Tôi đến gần, nó chạy nấp sau cái lu đựng nước mưa. Từ lúc thấy ông Phệnh đem con khỉ về, con Vâu gầm gừ chạy quanh đánh dấu lãnh thổ. Ông Phệnh thấy vậy vẫy nó lại thầm thì câu gì đó, lập tức nó đến bên con khỉ bị thương khẽ liếm láp như bày tỏ tình cảm.
“Con Vâu từ nay được làm anh rồi, còn hai con khỉ bác đặt tên là gì?” - tôi hỏi.
Ông Phệnh cắm cúi cưa mấy tấm ván đóng cho hai con khỉ cái nhà, ngẩng lên chỉ “Con này sập bẫy gần bụi dủ dẻ, đặt tên Dủ, con kia tên Dẻ cho tiện”, ông Phệnh cười hỉ hả.
Từ ngày có Dủ, Dẻ, nhà ông Phệnh lúc nào cũng vui như tết, tụi con nít trong xóm rảnh ra lại kéo tới nhà ông Phệnh coi Dủ, Dẻ làm đủ trò. Chừng hai tuần chân con Dủ đã lành, nó bắt đầu leo trèo khắp vườn. Hôm bữa thấy tôi qua, ông Phệnh vẫy lại: “Mai bác cho hai đứa về rừng, chân con Dủ lành rồi”. “Để tụi nó ở đây đi bác!”, tôi nài nỉ. “Tội nghiệp, chỗ của tụi nó là rừng”, ông Phệnh cười buồn.
Ông Phệnh sửa soạn cho Dủ, Dẻ lên đường, trước khi đi còn lột hai trái chuối chín cho ăn. Tôi đứng nhìn theo bóng ông Phệnh xa dần, sau lưng ông, con Dẻ chạy nhảy thoăn thoắt, con Dủ chân đã lành nhưng ông vẫn cho nó ngồi trong cái mủng đội đầu. Trong sân, con Vâu nằm dài miệng rúc vào hai chân vẻ buồn thiu. Chiều tắt nắng, ông Phệnh trở về, dáng vẻ lầm lũi đi đến cái nhà gỗ của Dủ, Dẻ đứng bịn rịn rồi khiêng nó ra để ở góc vườn, ông đứng nhìn thiệt lâu.
Từ ngày Dủ, Dẻ về rừng, con Vâu buồn xo, đứng bên này nghe tôi gọi nó chẳng buồn ngẩng lên. Chiều muộn, ông Phệnh vẫn còn cặm cụi lát lại mấy tấm đanh bên giếng, tôi ngồi vuốt ve con Vâu, thấy đuôi nó bỗng ngúc ngoắc, bất thần nó lao ra cổng sủa inh ỏi. Chưa kịp nhìn ra đã thấy con Dẻ vào đến hiên, sau lưng nó, con Dủ nhúc nhắc đi như ông cụ. Tôi mừng đến nỗi không tin vào mắt mình. Ông Phệnh đóng tấm đanh cuối cùng, nghe tiếng con Vâu, ông ngẩng lên đứng sững nhìn ba đứa nhảy chồm chồm. Thả rơi cái bay xuống đất, ông chạy đến ôm hai đứa, mắt dấn nước nhưng vẫn làm bộ nạt vài câu lấy lệ “Về rừng mà ở đi! Bu chi mà bu quá chừng!”.
Dủ, Dẻ ở cùng ông Phệnh bao nhiêu năm tôi không còn nhớ nữa. Chỉ nhớ, một buổi chiều bà tôi từ ngoài cổng lao vào bếp hớt hải vo gạo bắc nồi cháo, rồi quày quả qua nhà ông Phệnh, tay cầm theo chai dầu Nhị Thiên Đường.
Ông Phệnh đột ngột ngã bệnh, chừng một tuần thì qua đời. Những ngày ông nằm một chỗ, ông bà tôi luôn qua nhà, bà nấu cho tô cháo, ông xách nước tưới mấy luống rau. Con Vâu không rời ông Phệnh nửa bước, nó ngồi chầu hẫu nhìn ông nằm thiêm thiếp trên tấm phản. Như linh cảm, Dủ, Dẻ cũng thôi leo trèo phá phách, ngồi bên hiên ngơ ngác nhìn mọi người xao xác vào ra.
Ông Phệnh trút hơi thở cuối cùng, trước khi đi ông gượng dậy vẫy con Vâu lại gần run run xoa cái lưng gầy của nó, Dủ, Dẻ thấy vậy cũng lao tới, ông Phệnh đưa bàn tay về phía tụi nó nhưng không kịp nữa rồi. Ông gục xuống.
Cả xóm đưa ông Phệnh ra đồng vào một buổi chiều cuối đông lạnh ngắt. Vâu, Dủ và Dẻ cũng lẳng lặng theo đoàn người cho đến khi nắm đất cuối cùng lấp lại. Không đợi ai nhờ, ông bà tôi ngày ngày qua lại coi sóc căn nhà của ông Phệnh, đợi người thân ông về sẽ giao lại cho họ. Mỗi bữa nấu cơm, bà tôi nấu dư ra một ít cho con Vâu, trong vườn có trái cây chín bà lại cất dành đem qua nuôi Dủ, Dẻ.
Năm ngày rồi con Vâu bỏ ăn, nó ngồi nhìn chén cơm bằng đôi mắt buồn bã, người gầy rộc đi. Đến ngày thứ sáu bà tôi vẫn kiên trì đem cơm qua dỗ dành nhưng chẳng thấy nó đâu. Bà chạy quanh xóm tìm nó, gặp ai cũng hỏi nhưng tuyệt nhiên không ai biết con Vâu đi đâu về đâu. Bên hiên ông tôi thôi đốt thuốc, chầm chậm đứng lên khoác áo ra ngõ đi về phía đồng trên. Bên nấm mộ ông Phệnh còn tươi mới, con Vâu nằm đó mắt nhắm nghiền, thân hình lạnh ngắt từ bao giờ.
Nó đã chết.
Ông tôi chôn con Vâu bên bụi duối, chỗ này nhìn xuống là cánh đồng, cách không xa nấm mộ của ông Phệnh. Bà tôi mỗi ngày vẫn vén hàng rào qua nhà, đem cho Dủ, Dẻ trái chuối, chén cơm. Ông tôi nhìn hai đứa, yên lặng không nói gì, chỉ nghe tiếng ông thở dài thật khẽ.
Chiều đã sậm, những tia nắng cuối cùng trong ngày xiên qua vòm lá xuống sân, vẽ thành những vệt sáng lay động khi gió lướt qua, bên vườn tiếng Dủ, Dẻ bỗng chéc chéc liên hồi, ông bà tôi chạy qua đã thấy Dủ, Dẻ trèo lên cánh cổng tre, đầu cúi rạp xuống như chào tạm biệt. Ông bà chưa hiểu chuyện gì, Dủ, Dẻ đã chạy về hướng đồi trọc, nơi ngày trước ông Phệnh phát hiện thấy hai đứa và đem về nhà. Tôi nhìn theo bóng Dủ, Dẻ lúc này chỉ còn là hai đốm xám nhỏ xíu cho đến khi nó dần dần mất hút vào màu xanh cây cỏ.
Ông Phệnh không còn, con Vâu cũng theo ông, Dủ, Dẻ trở về rừng. Căn nhà ông Phệnh ông bà tôi vẫn qua lại coi sóc nhưng từ bao giờ khu vườn đã trở thành vườn hoang, lạnh lẽo. Bà tôi thói quen mỗi ngày vẫn ra hàng rào đứng ngó mông lung... Phía sau hàng rào bên ấy, chiều chiều ông Phệnh dọn cơm ra sân gạch, bên cái mâm nhôm móp méo, ba đứa Vâu, Dủ và Dẻ xúm xít quanh ông như ba đứa con thơ. Vừa ăn ông vừa đút con Vâu một miếng rồi quay qua bên kia chia thức ăn đều ra cho Dủ, Dẻ. Tôi còn nghe tiếng bà nồng ấm: “Ờ, rồi cuối cùng thằng Phệnh cũng có một gia đình”.
Nguồn Thừa Thiên Huế: https://baothuathienhue.vn/doi-song/mai-am-vuon-hoang-144997.html