Mang theo lời Bác, đuổi 'giặc mù chữ' ở vùng biên - Kỳ 2: Thắp lên ánh sáng tri thức

Các giáo viên của Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện A Lưới cũ (nay là khu vực 4, TP. Huế) nỗ lực mỗi ngày, với tâm nguyện, niềm tin trở thành 'điểm tựa' cho bà con trên con đường thắp lên ánh sáng tri thức.

Đêm buông xuống, mưa càng lúc càng nặng hạt. Gió núi luồn theo mưa chốc chốc rít ù ù. Khuôn viên Trường Tiểu học Hồng Bắc (xã A Lưới 2) vắng lặng trong mưa rét bỗng trở nên ấm áp lạ thường, bởi hình ảnh người thầy ngồi bên bộ bàn ghế ngoài hành lang, lặng lẽ đợi học trò. Trước câu hỏi vì sao không vào trong lớp học để tránh gió lùa, mưa tạt, thầy giáo Nguyễn Văn Ngua trả lời giản dị:

Thầy giáo Ngua người dân tộc Pa Cô đã công tác tại trung tâm 22 năm. Là người con của bản, thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục và xóa mù chữ, hàng chục năm qua, từng lặn lội qua đồi núi, đèo dốc, đi từng nhà, rà từng ngõ khảo sát, vận động, dạy học cho đồng bào, thầy Ngua thấu hiểu sự thiệt thòi, vất vả của bà con nơi mảnh đất vùng cao biên giới xa xôi còn nhiều khó khăn này.

“Những người mù chữ hầu hết là người nghèo, cả đời mưu sinh vất vả trên rừng rẫy, tối về đã mệt nhoài. Nhiều người lớn tuổi, đã có cháu nội, cháu ngoại nên mang tâm lý tự ti, ngại ngùng. Vậy nên, khi bà con đã vượt qua những rào cản để đi học, chúng tôi càng phải kiên trì nâng bước bà con đến lớp, gian nan nào cũng phải vượt qua”- thầy Ngua trải lòng.

Chúng tôi theo chân cô giáo Trần Thị Kim Chi đến lớp học xóa mù trên địa bàn thôn Âr Kêu Nhâm (xã Quảng Nhâm cũ, nay thuộc xã A Lưới 2). Trước đây, từng đến Âr Kêu Nhâm, tôi biết khoảng cách địa lý từ thị trấn A Lưới (cũ) tầm gần 20 cây số, qua nhiều con đường nhỏ, dốc, ngoằn ngoèo, hun hút, rất nhiều chặng sỏi đá, bùn lầy. Có những đoạn đường dài không nhà dân, hai bên là rừng keo tràm, rẫy sắn và những dãy nhà mồ của đồng bào dân tộc thiểu số, nằm sát cạnh đường đi.

Lớp học bắt đầu lúc 7 giờ tối, nhưng mới hơn 5 giờ chiều, chúng tôi đã xuất phát. Ở vùng biên giới, chiều như ngắn lại bởi sương mù dày đặc bao phủ núi rừng. Đi được nửa chặng đường, trời đã mờ tối. Trong màn đêm chập choạng, những dãy nhà mồ càng tăng vẻ “huyền bí” khiến chúng tôi ớn lạnh.

“Tôi và nhiều nữ đồng nghiệp, mấy năm qua thay nhau một mình lặng lẽ đi về trên quãng đường này. Là phụ nữ, nên nhiều đêm mưa gió rét mướt, đường tối, rừng núi hoang vu, tim cứ như nhảy ra ngoài lồng ngực. Nhưng chúng tôi đã vững tâm vượt qua khó khăn và những lúc yếu lòng”- cô Chi bộc bạch.

Những người dân lam lũ nơi bản làng xa xôi đã chịu thiệt thòi, hàng chục năm qua đói chữ, bây giờ dám mạnh dạn tìm chữ, để thay đổi cuộc đời, đang rất cần đội ngũ giáo viên trách nhiệm và tâm huyết. “Mùa cấy, mùa gặt, có lúc hơn 8 giờ tối học viên mới đến lớp, nhưng các cô giáo Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thủy, đồng nghiệp của tôi vẫn đợi đến cùng”- cô giáo Trần Thị Kim Chi nói. Cô và các đồng nghiệp đã và đang nỗ lực mỗi ngày, với tâm nguyện, niềm tin góp phần làm “điểm tựa” cho bà con, trên con đường tri thức, làm tròn trách nhiệm trước Đảng, học theo tư tưởng và lời dặn dò của Bác Hồ kính yêu đối với đội ngũ làm công tác giáo dục.

“Những năm trước, đường sá, đèo dốc còn hiểm trở, khó đi hơn bây giờ nhiều. Vậy mà chúng tôi vẫn lặn lội đến bản làng Hồng Hạ, Hương Nguyên, Hồng Bắc, A Roàng, A Đớt (cũ)…, cách nhà 20-35 km để dạy phổ cập tiểu học, dạy xóa mù chữ. Nắng thì mặc áo mưa để chống bụi bám. Mưa thì chỉ mặc quần đùi cho dễ lội qua sình lầy, nhất là những lúc trượt ngã, đến điểm dạy mới vội vàng thay quần áo. Nhiều đêm phải vượt đèo Mẹ Ơi - (con đèo từng được gọi bằng cái tên ấy vì vất vả đến mức chỉ biết kêu Mẹ ơi, nay là đèo A Co), gặp mưa gió, bão bùng, đường sạt, gian nan lắm. Nhưng vì trách nhiệm với đồng bào, để bà con luôn vững niềm tin đối với Đảng, chúng tôi luôn cố gắng vượt qua mọi khó khăn”- thầy giáo Pa Cô Nguyễn Văn Ngua trải lòng.

Ấn tượng sâu đậm nhất trong những buổi tiếp xúc với thầy Lê Đình Chinh, cô Bùi Ngọc Ánh - những người tâm huyết với công tác xóa mù chữ và đội ngũ giáo viên trung tâm, chính là tình yêu thương họ dành cho bà con bản làng. Từ người đứng đầu đến mỗi cán bộ, giáo viên đều thấu hiểu: trong các loại nghèo, thì nghèo chữ là khổ nhất, như Bác Hồ từng nói, đó là “giặc dốt” phải tiêu diệt. Giữa thời đại 4.0, 5.0, khi công nghệ, kết nối số và trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ, ấy vậy mà vẫn còn người không biết chữ, họ càng thêm trăn trở, xót xa. Đuổi “giặc mù chữ”, thắp sáng tri thức nơi bản làng, không chỉ là nhiệm vụ nghề nghiệp mà là mệnh lệnh từ trái tim của những người cầm phấn, là khát vọng mang lại cơ hội đổi đời cho nhiều số phận.

Cô giáo Hồ Thị Mai Đặng trải lòng: “Là người dân tộc thiểu số, từng thiếu thốn, từng thiệt thòi và vươn lên, tôi nguyện cùng đồng nghiệp, đơn vị “nâng bước” bà con bằng yêu thương thông qua hành động thiết thực”. Sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm, được phân công công tác tại Trường PTTH Hồng Vân, nhưng cô giáo Đặng đã chọn về với trung tâm, song hành cùng các bác, các mẹ, các bà đã thiệt thòi hàng chục năm qua, đưa họ đến với ánh sáng tri thức.

“Quá trình dạy chữ, giáo viên kết hợp dịch qua tiếng đồng bào dân tộc thiểu số. Tôi là người bản địa nên dễ dàng chuyển ngữ. Thật hạnh phúc lúc bà con vỡ òa vui mừng, khi biết thêm được nhiều điều. Với chúng tôi, xóa mù chữ không chỉ dạy cho bà con biết đọc, biết viết mà còn hiểu biết, mở mang về văn hóa cội nguồn và vượt ra xa hơn nữa”- cô giáo Đặng nói.

Một buổi tối, không phải ngày lên lớp, thầy giáo Hồ Ngọc Đạt, Hồ Ngọc Sinh và cô giáo Bùi Ngọc Ánh vẫn vượt quãng đường hơn 30km để đến các thôn PaRis-KaVin, thôn A Tin (xã Lâm Đớt cũ, nay thuộc xã A Lưới 4) để thăm hỏi, động viên học viên. Trong căn nhà nhỏ, bà Kăn Ư, 61 tuổi, đang cùng con dâu, chị Nguyễn Thị Ngôm chụm đầu bên trang vở, nắn nót từng nét bút. Gương mặt hai người phụ nữ - một già, một trẻ, thuộc hai thế hệ cùng ánh lên niềm hạnh phúc, tự hào khi ngắm nghía những dòng chữ ngay ngắn. Những bàn tay, từng quen với cuốc đất, trỉa bắp, trồng sắn, trồng keo nay run run cầm bút, viết nên những con chữ đầu đời.

Mỗi câu chuyện của thầy và trò đều “dẫn về” lớp học, nơi chất chứa những kỷ niệm xúc động, đẹp đẽ sẽ còn ở lại mãi trong ký ức. Có những hôm học viên từ rẫy về, chưa kịp ăn tối, đã vội vã đến lớp, chỉ vì thương giáo viên đang đợi. Cũng có những lúc, cô giáo viết bài lên bảng xong, đón đứa trẻ mới vài tháng tuổi đang ngon giấc, nhẹ nhàng ẵm vào lòng, để “mẹ bỉm” tập trung vào bút, vở. “Được học chữ, được giáo viên tặng gạo, tặng giấy, bút, sách vở, đồng bào mình quý tấm lòng của những người thầy nhiều lắm”- bà Kăn Ư xúc động.

Theo chia sẻ của ông Lê Đình Chinh, để việc nâng bước bà con đến trường càng thêm ý nghĩa, cán bộ, giáo viên trung tâm trích tiền lương để mua sách vở, đồ dùng học tập tặng học viên; đồng thời kết nối, vận động mạnh thường quân tặng gạo, các loại nhu yếu phẩm, như một lời khích lệ. Đó là khẳng định trách nhiệm và yêu thương của cán bộ, giáo viên trung tâm nói riêng, của cộng đồng, xã hội gửi gắm đến đồng bào vùng sâu, vùng xa A Lưới nói chung.

“A Lưới trong chiến tranh chống Mỹ, là một trong những điểm nóng hứng chịu lượng lớn bom đạn và chất độc da cam/dioxin, gây ra hậu quả nặng nề về sức khỏe, di chứng lâu dài cho người dân và biến nhiều vùng đất thành “vùng đất chết” như khu vực sân bay A So. Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhân văn, thiết thực, để giúp mảnh đất, người dân A Lưới xóa đói, giảm nghèo, hồi sinh sức sống, từng bước phát triển kinh tế- xã hội. A Lưới đã có hệ thống đường sá khang trang và màu xanh vươn lên của rừng rẫy, mùa màng. Bằng trách nhiệm là cánh tay nối dài của Đảng, cán bộ, giáo viên tập thể trung tâm nói riêng và những người làm công tác giáo dục đã, đang và sẽ tiếp tục đồng hành cùng người dân bản làng A Lưới, vững bước trên con đường tri thức”- ông Lê Đình Chinh khẳng định.

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/e-magazine/mang-theo-loi-bac-duoi-giac-mu-chu-o-vung-bien-ky-2-thap-len-anh-sang-tri-thuc-158298.html