'Mắt xanh','mắt trắng' và tiếp nhận văn chương!
Không chỉ ở thời hiện đại mới có giai thoại về những câu chuyện 'cơm không lành canh chẳng ngọt' giữa các nhà sáng tác và phê bình, mà đã có từ rất xa xưa, không chỉ ở ta, ở phương Đông mà có ở khắp nơi trên thế giới.
Giai thoại kể nhà văn Nguyễn Tuân nói sau này khi chết sẽ chôn theo vài nhà phê bình xem ra vẫn còn là nhẹ nhàng vì biết đâu cái ý của ông là cả nhà văn và nhà phê bình cùng sang bên kia thế giới để mà “tâm sự” hay cãi nhau cho vui…
Ở phương Tây vốn thiên về lý trí, sự mâu thuẫn xem ra còn căng thẳng hơn khi có nhà văn gọi nhà phê bình là “kẻ không thể trở thành nhà văn lại thích viết văn”. Thậm chí có người “định nghĩa”: “Khi những kẻ ngu ngốc xét đoán những người thông thái thì gọi là phê bình”. Có nhà văn mỉa mai một cách “rất nghệ thuật”: “Nhà phê bình như những kẻ thái giám, biết cả nhưng không làm được”.
Thật chua ngoa, nanh nọc nhưng thừa nhận so sánh giỏi. Thái giám là những người đàn ông bị thiến hoạn có nhiệm vụ trông coi cung nữ cho nhà vua nên biết nhiều chuyện “cung cấm”. Họ thường khó tính và hay xét nét. Nhưng “không làm được” gì, vì… Nhà phê bình biết tuốt, thậm chí biết giỏi hơn nhà sáng tác về các công đoạn sáng tác nhưng không sáng tác được. Xem ra hoàn cảnh hai bên cũng… giống nhau!
Hẳn nhiên phê bình cũng “vặc” lại: “Nhà văn là loại người không bao giờ đủ lớn đủ khôn để có thể xét đoán (nghệ thuật) theo kiểu phê bình”…
Thực tế thì phê bình và sáng tác là anh em trong gia đình nghệ thuật có vai trò, chức năng riêng và rất cần đến nhau. Phê bình hiện diện như là lẽ đương nhiên vì trong nhà sáng tác nào cũng có một nhà phê bình. Nhà văn nào cũng phải sửa chữa, thêm câu giũa chữ… thì đó chính là một phần công việc phê bình… Tác phẩm phải có bạn đọc, tức là phải có quá trình tiếp nhận. Tiếp nhận chính là phê bình!
Lịch sử phê bình phương Đông xem ra có phần sớm và đậm hơn phương Tây khi lối phê bình tri âm sớm phát triển. Khởi nguyên bằng một câu chuyện. Bá Nha khi đàn nghĩ đến núi, Chung Tử Kỳ nghe bèn nói tiếng đàn vời vợi như non cao.
Bá Nha đàn nghĩ đến biển, Tử Kỳ mơ màng nhận xét tiếng đàn mênh mang như sóng nước đại dương. Tử Kỳ chết. Bá Nha đàn chẳng ai hiểu bèn đập đàn bỏ vào núi. Câu nói của Nguyễn Hành trong “Minh quyên thi tập” thật chí lý: “Tiếng kêu não nùng của con cuốc, cuối cùng chỉ lơ lửng treo trên cành cây mà thôi. Ta kêu bằng văn chương chữ nghĩa, đến tập thơ này là tột cùng của sự đau khổ rồi… Ai là người nghe thấy được, để nối tiếp tiếng kêu mà kêu thêm lên?”. Trong lời kêu gọi phê bình này của nhà thơ như có cả máu và nước mắt!
Truyện Kiều có câu: “Bấy lâu nghe tiếng má đào/ Mắt xanh chẳng để ai vào có không”, là lấy từ cái tích “mắt xanh mắt trắng”. Điển cố kể, có bảy người nổi tiếng chơi với nhau, người đời gọi là “Trúc lâm thất hiền” (bảy người hiền ở rừng trúc), gồm: Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn, Sơn Đào, Hướng Tú, Vương Nhung và Nguyễn Tịch.
Nguyễn Tịch tên đầy đủ là Nguyễn Nguyên Tịch, đời nhà Tấn, là người rất hay uống rượu (nhưng chưa bằng Lưu Linh) và đàn cũng rất giỏi. Vẫn còn lưu lại giai thoại về ông, biết một nơi nọ có người cất rượu rất ngon, trữ tới 300 hũ mỹ tửu, ông liền xin vào làm một chức nhỏ ở nơi ấy để được thưởng thức.
Nguyễn Tịch hay say, có lần say liền 60 ngày, đến nỗi vua Tấn muốn nói chuyện với ông mà không được. Người đời gắn cho ông biệt hiệu “cuồng túy”. Làm quan một thời gian ngắn, thấy chốn quan trường đầy rẫy những sự hèn mạt, ông cáo quan rồi đi ngao sơn du thủy, kết bạn với những người mình thích. Nguyễn Tịch có cách ứng xử độc đáo, khác người, rất lạ lùng.
Khi nói chuyện, nếu người đối thoại là hạng quân tử, hoặc là người mình ưa, ông nhìn bằng con mắt có tròng xanh. Khách là kẻ tiểu nhân tầm thường, hoặc là người mình ghét thì nhìn bằng con mắt có tròng trắng. Người đời sau dùng chữ “mắt xanh” để chỉ sự tinh tường trong phát hiện, công tâm trong đánh giá. Từ Hải nói với Kiều: “Mắt xanh chẳng để ai vào có không?” chứng tỏ Từ cũng là người có học, biết đến tài năng, nhân cách, và trân trọng vẻ đẹp của Kiều. Ý Từ muốn hỏi Kiều: nàng tìm thấy ai là người vừa ý, người mình yêu chưa? Không hề võ biền, Từ là người thật tinh tế, ý nhị.
“Mắt xanh” là một ẩn dụ thật đích đáng dành cho nhà phê bình nào đó có công phát hiện ra một tác phẩm hay, khẳng định tài năng một tác giả khả kính… Nhưng “mắt xanh” trong phê bình luôn là sự hiếm hoi. Vì đặc trưng của văn học và của chính phê bình.
Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật. Mà hình tượng thì phải lung linh đa nghĩa nên cần có nhiều cách tiếp cận, nhiều cách hiểu khác nhau. Do vậy mà có khi một nhân vật văn chương chia đôi, chia ba thế giới tiếp nhận, người khen, kẻ chê, người đồng tình, người phản đối…
Trường hợp nhân vật Thúy Kiều là một ví dụ tiêu biểu. Ngay chính Nguyễn Du đã để cho một nhân vật (Thúc Sinh) ca ngợi Kiều có cái đẹp ngang với sự tuyệt mỹ của tạo hóa: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Nhưng đến cụ Nguyễn Công Trứ thì lại hạ Kiều xuống đáy: “Thập thành con đĩ mắc mưu quan”…
Đánh giá khác nhau là chuyện bình thường, ngay cả với những tên tuổi lớn. Sêkhôp có truyện ngắn “Người tỉnh nhỏ” xây dựng hình tượng người đàn bà nhiều đời chồng, chồng nào cũng yêu cũng chiều. L.Tônxtôi coi đó là điển hình cho những người phụ nữ vị tha đáng khen. Nhưng V. Lênin lại nhìn thấy chị ta tiêu biểu cho cái tình hời hợt, dựa dẫm, thiếu bản lĩnh, thiếu cá tính… Rồi Gớt - đại thi hào không phục và rất ít đọc Sếchxpia…
Ngày nay nhân loại xếp tiểu thuyết “Đôn Kihôtê” của Xécvantec hay nhất thế gian nhưng quá khứ thì nó có một số phận rất bấp bênh. Mới đầu bạn đọc Tây Ban Nha coi Đôn Kihôtê là một kẻ điên, chẳng có gì hấp dẫn, đáng đọc để rồi rẻ rúng tác phẩm. Ở Pháp thế kỷ XVII lại “đọc” nhân vật đó theo cái nhìn đạo lý, coi tác phẩm mang tính thuyết giáo. Bạn đọc Anh lại coi đó là nhân vật biểu tượng cho lý tính răn dạy người đời. Bạn đọc Nga lại xem nhân vật là sự “giải thiêng” các lý tưởng lỗi thời…
Ngoài lối phê bình “tri âm” và nhiều kiểu tiếp nhận tiến bộ khác, ở phương Đông phong kiến khắc nghiệt còn có lối tiếp nhận thật sự kinh hoàng, để lại trong lịch sử những “văn tự ngục”, “án văn tự” khủng khiếp. Đời nhà Thanh có nhà thơ tên Tử Tuấn làm bài thơ có hai câu: “Minh nguyệt hữu tình hoàn cố ngã/ Thanh phong vô ý bất lưu nhân” (Trăng sáng có tình còn nhìn ta/ Gió mát vô ý không giữ người lại). Ý thơ hay, lai láng. Cảm xúc bay bổng như muốn hóa thân vào thiên nhiên. Thế mà chỉ vì có hai chữ “Minh”, “Thanh” ở đầu câu để rồi triều đình khép tội “kỵ húy” đến nỗi tác giả bị xử trảm…
Phê bình, dù có cố gắng đến đâu cũng khó thoát khỏi sự cảm tính. Ngày nay khái niệm “đọc nhầm” (misreading) đang trở nên phổ biến, tức coi phê bình có nhiều cách hiểu, thậm chí “nhầm” cũng là một cách hiểu. Đích đến của phê bình là sự khắc phục các cách hiểu để dần đưa vấn đề đến chân lý. Đấy cũng là cách kéo bạn đọc ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi đến với văn chương (hiểu nhầm còn hơn không đọc). Và có những cách hiểu lạ lẫm, thú vị được đề cao.
Ví như truyện cổ tích “Ông lão đánh cá và con cá vàng” (vốn của Puskin) của người Nga, trước đó hầu như chỉ có một cách tiếp nhận coi ông lão đánh cá thật thà, lương thiện, đáng kính trọng và đáng học tập, làm theo. Nhưng có một cậu bé mới sáu, bảy tuổi được nghe mẹ kể (là một Nghệ sỹ nhân dân). Người mẹ kể xong rồi kết luận (theo phong trào) phải học tập tính cách nhân hậu thương người của ông lão. Nhưng đứa con phản ứng lại thật bất ngờ: ông lão ấy dốt thế, đã xin được nhà này nhà nọ, chức này chức nọ, thế mà cái cần nhất là xin một bà vợ khác, tử tế hơn lại không xin…
Không thể khẳng định cậu bé này có “con mắt xanh” nhưng chắc chắn ý của cậu là một cách hiểu. Dưới góc nhìn của lý thuyết đọc “nhầm” thì cậu ta “nhầm thể loại” vì tư duy cổ tích là tư duy ngây thơ nên nếu nhìn bằng con mắt khôn ngoan của hôm nay thì sẽ dẫn đến bắt bẻ…
Tóm lại phê bình văn chương không hề tẻ nhạt mà đang bung ra mời gọi và thách thức… Mỗi người đọc là một nhà phê bình. Xin mời bạn!