Mấu chốt đề án giáo dục đại học số là chất lượng học liệu
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho rằng, mấu chốt đề án giáo dục đại học số là chất lượng học liệu và nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên...
Chiều 30/9, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn chủ trì phiên họp của Tiểu ban Giáo dục đại học (Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực) về “Góp ý dự thảo đề án triển khai thí điểm mô hình giáo dục đại học số”
Phiên họp được tổ chức theo hình thức trực tiếp tại Phân hiệu Trường Đại học FPT tại Bình Định, do Văn phòng Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực phối hợp với Vụ Giáo dục Đại học tổ chức.
Xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học
Đề án triển khai thí điểm mô hình giáo dục Đại học số được xây dựng trên cơ sở “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập. Cung cấp các khóa học đại trà trực tuyến mở (MOOCs) cho tất cả người dân nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục nhờ công nghệ số, đào tạo, đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng số; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập.
Mô hình giáo dục đại học số hướng tới giáo dục đại học chia sẻ trên cơ sở phát triển hệ thống nền tảng và học liệu quốc gia, đồng thời khai thác có hiệu quả những nguồn học liệu có giá trị có sẵn trên thế giới. Mô hình sẽ kế thừa có chọn lọc các mô hình thành công trên thế giới, áp dụng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của giáo dục đại học Việt Nam; có khả năng tương tác với các mô hình đại học số trên thế giới.
Mô hình sẽ tập trung thí điểm trong phạm vi các cơ sở đào tạo có uy tín và các lĩnh vực đào tạo có nhu cầu cao về nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực công nghệ số; có tính mở, tạo sự lan tỏa và đảm bảo phát triển bền vững sau giai đoạn thí điểm.
Phạm vi thí điểm trong giai đoạn từ 2024-2025 là lựa chọn 2-3 nhóm lĩnh vực (Máy tính và công nghệ thông tin và 1 đến 2 lĩnh vực khác) và 5 cơ sở GDĐH uy tín cho mỗi lĩnh vực chủ trì triển khai Đề án. Giai đoạn 2026-2028 thì mở rộng cho các cơ sở giáo dục đại học khác tham gia triển khai Đề án.
Hiện nay, có 5 trường đang tham gia thí điểm mô hình giáo dục Đại học số trong đào tạo nhân lực công nghệ số đang được xúc tiến triển khai, gồm Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng và Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông.
“Mục tiêu chính của mô hình giáo dục đại học số chia sẻ, dùng chung được hình thành và vận hành hiệu quả với đầy đủ hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách thu hút được số lượng lớn các cơ sở GDĐH, giảng viên, người học và các bên liên quan khác tham gia, góp phần đưa giáo dục đại học số trở thành một trụ cột của GDĐH, phát triển xã hội học tập, tạo đột phá trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Đến năm 2028, hệ thống giáo dục đại học số chia sẻ, dùng chung được phát triển tương đối hoàn chỉnh, có đủ năng lực tự vận hành hiệu quả. Hệ thống cung cấp ít nhất 50 khóa học trực tuyến mở trong khoảng 50-60 chương trình đào tạo cấp bằng trình độ đại học thuộc 2 đến 3 lĩnh vực đào tạo. Có ít nhất có 10 cơ sở giáo dục đại học chủ trì cùng tham gia xây dựng học liệu số, cung cấp và sử dụng các khóa học trực tuyến mở trên Hệ thống. Có khoảng 20.000 đến 25.000 sinh viên tham gia học trên Hệ thống”, ông Nguyễn Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) chia sẻ.
Vụ giáo dục Đại học đã đề xuất một số một số giải pháp để triển khai Đề án. Trong đó, chú trọng hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển Mô hình giáo dục đại học số chia sẻ, dùng chung mà cụ thể là áp dụng cơ chế đặc thù cho các cơ sở GDĐH tham gia thí điểm, tăng tỉ trọng đào tạo trực tuyến; tăng chỉ tiêu tuyển sinh. Xây dựng và ban hành văn bản để vận hành Hệ thống (Tài chính, Quy trình kỹ thuật, quy định đào tạo trực tuyến/ứng dụng CNTT, tiêu chuẩn chuyên môn/công nhận tín chỉ…
Ngoài ra, chú trọng xây dựng cơ chế hợp tác, chia sẻ giữa các cơ sở GDĐH; Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật; Xây dựng cơ chế đánh giá, khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tham gia phát triển giáo dục đại học số…
Cần có cơ chế chính sách cụ thể cho Đại học số
Góp ý về đề án, GS.TS Hồ Tú Bảo - Viện Nghiên cứu Cao cấp Về Toán (VIASM) cho rằng, cần xác định rõ mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể.
GS.TS Hồ Tú Bảo cũng chỉ ra một số thách thức trong nhiệm vụ và giải pháp. Đơn cử như trong bối cảnh kiến thức và nghề nghiệp thay đổi nhanh thì yếu tố nào để đảm bảo Hệ thống có tính bền vững, thời sự và cập nhật. Các cơ sở giáo dục Đại học có chương trình đào tạo khác nhau, không có textbook dùng chung, trình độ giáo viên, sinh viên không đồng đều... Vì vậy, phải tính đến tính khả thi, tính hiệu quả của Hệ thống.
GS.TS Hồ Tú Bảo đề xuất nên mở rộng mục tiêu và nội dung đề án ra những khía cạnh khác của chuyển đổi số giáo dục Đại học. “Chương trình đào tạo ở đại học cần được cập nhật, thêm bớt… đổi mới phương pháp dạy học là “Thay đổi”, “chia sẻ” và “dùng chung” là những keyword cốt yếu. Đề xuất Bộ GD&ĐT chủ trì phát triển một nền tảng cho quản trị, quản lý dùng cho các trường đại học. Nền tảng này giúp xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về nhân lực đào tạo ở bậc đại học…”, GS.TS Hồ Tú Bảo nói.
Còn PGS.TS Mai Thanh Phong – Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) cho rằng, thách thức đầu tiên là hiện chưa có cơ chế chính sách cho giáo dục Đại học số. Mọi quy chế hiện nay đều phù hợp với trực tuyến, trực tiếp chứ chưa có quy định cụ thể cho Đại học số. Vì thế cần phải hoàn thiện chính sách cho Đại học số.
“Hạ tầng kỹ thuật và nguồn học liệu và đội ngũ giảng viên, cán bộ kỹ thuật vận hành hệ thống cũng là một thách thức của đại học số. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng hệ thống cơ chế chính sách liên quan đến Đại học số. Bộ GD&ĐT cần có những cơ chế chính sách để các cơ sở giáo dục có thể cùng triển khai chứ không nhất thiết phải thí điểm tại một số cơ sở giáo dục Đại học. Vì nếu thí điểm một số đơn vị thì vô hình chung làm chậm vấn đề này. Ngoài ra, Bộ GD&ĐT cần xây dựng hạ tầng kỹ thuật, nguồn học liệu chung để tiết kiệm nguồn lực… Có giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ vận hành hệ thống”, PGS Mai Thanh Phong kiến nghị.
Chất lượng học liệu và vận hành hiệu quả là mấu chốt của đề án
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn ghi nhận những nhận xét, kiến nghị, đề xuất của các chuyên gia tại hội nghị. Ban biên tập đề án tiếp thu các ý kiến của chuyên gia để nghiên cứu đưa vào đề án.
“Điều đầu tiên của đề án giáo dục đại học số đó là chất lượng học liệu. Sự chia sẻ nguồn học liệu trong hệ thống để sinh viên các trường đại học có thể dùng chung sẽ làm tăng giá trị và tạo sự đột phá, tác động trở lại chất lượng giáo dục đại học. Vì thế, hồn cốt giáo dục đại học số khác với Trường đại học số. Bởi trường đại học số chỉ ở mức cơ sở, nhưng giáo dục đại học số lại mang tính hệ thống”, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn khẳng định.
Thứ trưởng Sơn cũng lưu ý về việc phải có hệ thống theo dõi, đánh giá quá trình người học. “Chất lượng học liệu là quan trọng nhất, cùng với đó nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, phải kiểm tra, đánh giá… để mô hình vận hành phải bền vững”, Thứ trưởng Sơn nhấn mạnh.