'Miền cao bồi' trên đất Tây Nguyên

Ở Tây Nguyên có một vùng đất của những 'cao bồi' (cowboy), giống như những chàng chăn bò miền viễn tây hoang dã của nước Mỹ ngày trước. Chỉ có điều, cao bồi Mỹ thường gắn với hình ảnh súng ống và ngoài vòng pháp luật. Còn ở miền cao nguyên này, có những 'cao bồi' dân dã hơn và họ cũng mưu sinh bằng nghề chăn bò thuần chất.

Trên những sườn đồi du mục

Thời điểm này đang ở đầu mùa khô Tây Nguyên, những cơn gió không mang cái nóng khô rát mà có chút hơi ẩm thổi thoang thoảng trên lưng đèo Chư Sê thuộc xã H’Bông, huyện Chư Sê (Gia Lai). Từng đàn bò lớn chậm rãi gặm cỏ trên sườn đồi làm tung lên những đá bụi nhỏ trong nắng chiều giữa bầu trời trong vắt.

Rơ Châm Lích tựa lưng vào một bọng cây lớn, tha thẩn nhìn đàn bò ung dung gặm cỏ. Thi thoảng, vút lên không trung là tiếng hát khỏe mãnh liệt và khoáng đạt của Lích. Chàng chăn bò này đã ở tuổi gần 40, đã có vợ con và thâm niên hơn 10 năm chăn bò. Tất nhiên, đàn bò của Lích là đi chăn thuê. Chứ nếu có chừng ấy bò, Lích đã chẳng phải nhọc công dãi dầu như vậy. Lích uống một ngụm nước rồi cười, đôi mắt nâu chứa đầy niềm vui.

 Bò được chăn thả ở vùng H’Bông.

Bò được chăn thả ở vùng H’Bông.

Lích bảo, đàn bò hơn 50 con mà Lích và vợ đang chăn là của một trang trại trong vùng. Ở đây, nương rẫy khó trồng vì nguồn nước khan hiếm hơn các vùng khác nên cây công nghiệp rất khó trụ được. Cả một khoảng rộng bao la trên và dưới đèo Chư Sê này là những đồng cỏ. Chúng xanh tốt theo mùa và lụi tàn theo tháng không có nước. Vì những điều kiện ấy nên ở đây chỉ có những đàn bò, đàn dê chăn thả trên khắp vùng đồi mà thôi.

Không chỉ vợ chồng Lích, mà mấy chục hộ dân người Jrai ở H’Bông này nghề chính cũng là chăn bò. Xã H’Bông có tất cả 12 thôn, trong đó có tới 11 thôn là người J’rai và Bahnar sinh sống, còn lại là một thôn của người di cư nằm hai bên quốc lộ. Trong các buôn làng, người J’rai và Bahnar thường hay làm nghề chăn bò thuê để kiếm sống.

Hình như Yang cũng ưu ái vùng đất này, bởi giữa cuộc sống nghèo nàn và hiu quạnh trên và dưới đèo Chư Sê này có những cánh đồng cỏ trải dài rất hợp với việc chăn thả đàn gia súc lớn. Thế là, bắt đầu từ năm 2004, các chủ trang trại cùng với chính quyền tỉnh Gia Lai đã thành lập ở đây những trang trại chăn nuôi bò lớn.

Nghề chăn bò nơi này công sức được trả rất đa dạng. Như vợ chồng Lích, hay vợ chồng Ksor Khăm, vợ chồng Siu Nét và nhiều người nữa thì họ nhận công bằng bê con. Còn những người khác thì có thể nhận công bằng tiền hằng tháng. Mỗi công người chăn bò nếu nhận tiền tháng sẽ rơi vào khoảng từ 4-7 triệu tùy số lượng bò chăn được. Mỗi hộ nhận nuôi từ 10 tới 20 con, nếu nhà đông người, có thể nhận 60-70 con bò, chỉ cần 1 lao động chính và 1-2 lao động phụ ở các gia đình chăn dắt là có thể đảm bảo được công việc.

Như Lích nhận chăn 10 con bò, nếu sau một năm, bò mẹ đẻ được 10 con thì lích sẽ được 1 con. Và có thể nuôi chung đàn với bò của chủ. Ở vùng này, nhiều người cũng nhận công chăn bò như Lích. Vì cuối năm, có thể sẽ được 1 hoặc 2 con bê con, không mất tiền mua bò giống mà vẫn chăn thả cùng đàn bò của chủ được. Cứ thế, như Lích sau 10 năm chăn bò, đàn bò của anh giờ cũng được gần chục con. Đó là cả một gia tài với những người chăn bò như Lích.

 Chiều về, tiếng mõ hòa với tiếng đàn bò gọi nhau tạo nên bản đồng ca.

Chiều về, tiếng mõ hòa với tiếng đàn bò gọi nhau tạo nên bản đồng ca.

Cạnh nhà Lích có nhà anh Tùng, từ Quảng Ngãi lên đây lập nghiệp cũng bằng nghề chăn bò này. “Không đủ tiền mua đất sản xuất nên cả nhà tôi đều làm nghề nuôi bò thuê. Tuy vất vả nhưng vẫn sướng hơn ở quê. Nhận nuôi hơn 70 con bò thịt của chủ trang trại, nhận tiền công mỗi tháng vài triệu thôi, gọi là đủ sống. Đến tuổi bán, nếu bò béo, được giá thì ông chủ thưởng thêm cho công nuôi, chăm sóc.

Tuy nhiên, tiền công nuôi bò không bằng tiền bán phân bò. Trung bình cứ 3 ngày bán một đợt phân. Góp lại cũng được 4 triệu đồng/tháng. Ăn ngủ với bò riết rồi cũng quen, cực khổ lắm nhưng chắt chiu thì cũng đủ nuôi gia đình và dành dụm được chút ít cho con sau này ăn học”, anh Tùng chia sẻ.

Và thế là, ngoài công việc chính là chăn bò thì việc nhặt phân bò bán cho các trang trại trồng cây công nghiệp như tiêu, cà phê, điều, cao su... cũng mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người chăn bò. Bò thì sẵn đấy, mỗi khi chúng “giải quyết” thì người chăn bò lại hốt về. Thế nên mỗi người thường có một chiếc gùi, hoặc chiếc thùng để mang đi nhặt mỗi buổi chăn bò.

Dàn đồng ca của thảo nguyên

Hơn chục năm trước, khi chưa chia tách, huyện Chư Sê (nay là Chư Sê và Chư Pưh) thì vùng đất này là thủ phủ của các chủ trang trại, có lúc lên đến hơn 800 trang trại, chiếm 40% tổng số lượng trang trại toàn tỉnh Gia Lai. Trong số đó, có những trang trại nuôi bò lên tới hàng trăm con. Trong đó có những trang trại lớn như trại bò của ông Nguyễn Đình Phúc, lúc cao điểm lên đến 4.000 con, là trang trại bò tư nhân lớn nhất toàn quốc thời điểm cách đây hơn 10 năm. Hiện nay, ông Phúc có 27 đàn bò được thuê người nuôi, với số lượng trên 1.400 con bò tại địa bàn xã H’Bông.

Vì lượng nhân công chăn bò thiếu hụt, dù những “cao bồi” J’rai và Bahnar làm việc rất tốt nhưng lượng bò cần chăn quá lớn nên những người Kinh cũng tham gia vào công việc chăn thả này. Rồi sau đó, hơn 150 gia đình từ khắp nơi quần tụ ở lưng đèo Chư Sê để làm nên một “xóm cao bồi” có một không hai trên đất Tây Nguyên. Hiện nay, huyện Chư Sê còn 371 trang trại, với tổng số lao động lên đến 1.273 người, trong đó có 345 trang trại trồng trọt và 21 trang trại chăn nuôi.

Anh Rơ Châm Lích nhiều năm làm nghề chăn bò thuê và giờ đã có những con bò của riêng mình.

Anh Rơ Châm Lích nhiều năm làm nghề chăn bò thuê và giờ đã có những con bò của riêng mình.

Chăn bò tưởng chừng thảnh thơi và dễ nhưng thực sự là không hẳn vậy. Như Lích, trong một buổi chiều lơ đãng vì cơn mưa. Một con bò lớn của Lích bị lạc. Đến tối muộn mà Lích chẳng thấy bò đâu nên lo lắm. Trời thì mưa dông, bóng tối bắt đầu phủ xuống. Nếu mất bò, Lích sẽ phải đền. Có khi mất cả công việc vì chủ bò sẽ không cho nuôi nữa. Lích quáng quàng gọi vợ, anh Tùng ở nhà bên thấy Lích hốt hoảng thì cũng sang hỏi thăm. Rồi thế là vợ chồng Lích cùng vợ chồng anh Tùng và mấy đứa con đốt đuốc đi tìm bò trong bóng tối nhập nhoạng và cơn mưa rả rích.

Cũng may, đến nửa đêm thì Lích tìm được con bò đang nằm trú trong một lùm cây cách nhà hơn 3km. Sau trận hú hồn ấy, Lích và vợ chăm bò kỹ lắm. Bởi mỗi con bò là cả một gia tài. Mà Lích thì chẳng khá giả gì.

Chăn nuôi bò ở đây theo lối chăn thả tự do. Là một hình thức chăn nuôi quảng canh và tận dụng tài nguyên, phụ phẩm nông nghiệp. Mùa mưa, bò được chăn thả trên các bãi cỏ, sườn đồi. Mùa khô, người chăn bò thường về các vùng lúa thung lũng Ayun Hạ tích trữ rơm khô bổ sung khẩu phần ăn cho bò. Lích bộc bạch, khi nhận chăn bò, chủ và người chăn phải làm hợp đồng cam kết rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm. Nếu bò bị chết có nguyên nhân rõ ràng thì chủ bò sẽ chịu.

Ngược lại, bò bị mất hoặc chết thì người chăn phải đền bò hoặc tiền. Lích tâm sự: “Nuôi bò, ngày nắng cũng như ngày mưa, phải kiểm soát bò thật kỹ. Bữa nay người ta làm rẫy nhiều nên cực lắm, hễ bò vào ăn hoa màu là bị chặt chân liền”.

Nghề chăn bò thuê ở xứ này vốn lắm gian nan. Cả năm trời, chân phải đạp lên đá núi nhiều khi tứa máu, đau đến phát khóc. Đặc biệt, vào mùa khô phải đi vài km để gánh nước về cho bò uống. Những lúc bò đi lạc phải đi tìm... Hơn nữa, bây giờ việc chăn bò ở đây cũng ngày càng khó do diện tích đồng cỏ đang bị thu hẹp dần vì người dân khai hoang làm nương rẫy. Nhưng, những “cao bồi” miền đất này vẫn thủy chung với nghề.

Cứ thế, nhiều năm trôi qua trong “xóm cao bồi” ấy và lân cận đó là những ngôi làng J’rai và Bahnar cùng sống chan hòa và làm nghề “cao bồi” trên những sườn đồi đầy cỏ. Chiều chiều, những chú bò phủ rợp những sườn đồi. Chúng tấu lên những khúc nhạc bằng tiếng kêu giống loài đặc trưng, hòa cùng tiếng mõ lốc cốc, tiếng hát của những “cao bồi” nhiều lứa tuổi nổi lên trong tiếng gió vi vu dìu dặt. Tất cả như một dàn đồng ca du mục miền thảo nguyên đầy da diết.

Chiều về, khi ánh nắng đã đỡ gắt hơn, những tiếng bò gọi nhau hòa trong tiếng mõ lốc cốc tạo nên một không khí vô cùng nhộn nhịp và đầy sức sống. Những đàn bò 10 hay 20 con, hay cả những đàn bò lớn 50-70 con do nhiều người chăn thả cùng lục tục kéo nhau về. Những tiếng í ới gọi nhau, những tiếng cười đùa của lũ trẻ J’rai hay Bahnar với những âm điệu đặc trưng của núi rừng hòa lẫn với tiếng Kinh réo rắt. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp với sức sống kỳ vĩ mà ít người thấy được.

Ở đó, sự chan hòa giữa người Kinh hay người J’rai, người Bahnar đã tạo nên một mối dây gắn kết khó xóa nhòa. Họ giúp đỡ nhau như cách mà anh Tùng giúp Lích tìm con bò đi lạc, như cách Lích mang ghè rượu quý nhất trong nhà đến mừng năm mới của người Kinh, như cách H’Thoan mang mấy bộ quần áo mới về cho con khi được cô Tuyết giúp đỡ. Nhiều lắm không thể kể hết được. Chỉ biết được rằng những con người ấy cùng làm nên những “cao bồi” miền thảo nguyên chân chất và khoáng đạt như nắng và gió nơi này.

Tiêu Dao - Đinh Dũng

Nguồn ANTG: http://antg.cand.com.vn/phong-su/mien-cao-boi-tren-dat-tay-nguyen-635624/