Mở cửa dòng vốn vào IFC: muốn tăng tốc phải 'thắt dây an toàn'

Thách thức đầu tiên trong việc xây dựng khung pháp lý cho trung tâm tài chính quốc tế (IFC) tại TPHCM và Đà Nẵng là việc cân bằng giữa ba yếu tố: tốc độ, 'độ mở' và các 'chốt an toàn'.

Trung tâm tài chính quốc tế tại TPHCM được định hướng sản phẩm, dịch vụ toàn diện như thị trường ngân hàng, vốn gắn với dịch vụ quản lý tài sản, quản lý quỹ, fintech, đổi mới sáng tạo, sàn giao dịch chuyên biệt, hàng hóa phái sinh. Ảnh: TL

Trung tâm tài chính quốc tế tại TPHCM được định hướng sản phẩm, dịch vụ toàn diện như thị trường ngân hàng, vốn gắn với dịch vụ quản lý tài sản, quản lý quỹ, fintech, đổi mới sáng tạo, sàn giao dịch chuyên biệt, hàng hóa phái sinh. Ảnh: TL

Tăng tốc xây dựng cơ chế “mở”

Trong công điện hôm 7-9 của Thủ tướng Chính phủ về điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, một nội dung quan trọng nhắc đến là tập trung hoàn thành các quy định về Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) tại Việt Nam trong tháng 9.

Trong diễn biến gần nhất, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra dự thảo Nghị định quy định hoạt động tại IFC (cấp phép thành lập và hoạt động ngân hàng, quản lý ngoại hối, phòng chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố…). Trong đó có điểm nhấn như các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế từ 1.000 đô la Mỹ trở lên phải báo cáo.

Dự thảo cũng quy định chiều dịch chuyển của dòng vốn. Theo đó, cho phép IFC “bơm” vốn vào phần còn lại của Việt Nam nhưng không có chiều ngược lại, trong khi giữa IFC và thế giới là hai chiều. Ranh giới ngoại hối cũng được vạch ra giữa các thành viên.

Theo PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên Đại học UEH, chế độ báo cáo này được xem là một chuẩn kỹ thuật phù hợp cho các giao dịch xuyên biên giới dày đặc ở IFC. Bản thân NHNN cũng cảnh báo thẳng nguy cơ bị lợi dụng để hợp pháp hóa nguồn tiền khi IFC có độ mở cao.

Quản lý dòng vốn được xem là bản lề của toàn bộ kiến trúc. Dự thảo khung pháp lý đang theo đuổi kiến trúc “mở có chốt”, tức mở để cạnh tranh dòng vốn quốc tế, nhưng đặt những chiếc “chốt an toàn” nhằm tách bạch rủi ro với hệ thống tài chính nội địa, theo ông Huân.

Theo TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, Giảng viên Trường chính sách công Fulbright, bình luận dự thảo về khung pháp lý của IFC có sự cởi mở đáng kể về tự do dòng vốn.

Bao gồm cho phép các thành viên IFC huy động vốn từ tổ chức, cá nhân ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không cần xin phép, chỉ cần khai báo và báo cáo; không tính các khoản vay từ bên ngoài vào chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia; cho phép nhà đầu tư nước ngoài 100% không phải tuân thủ các quy định quản lý ngoại hối khi đầu tư, cho vay ra nước ngoài.

“Đây là bước tự do hóa sâu về tài khoản tài chính, là một trụ cột được nhiều nước áp dụng cuối cùng sau khi hoàn thiện thể chế tài chính trong nước”, ông Tuấn bình luận.

Tuy nhiên, về mặt rủi ro, việc mở cửa tài khoản vốn có thể dẫn đến nguy cơ mất ổn định vĩ mô. Dòng vốn nóng dễ đảo chiều khi nhà đầu tư quốc tế có thể rút vốn hàng loạt.

Đây chính là cú sốc từng làm sụp đổ thị trường tài chính Thái Lan năm 1997 và Mexico năm 1994. Ngoài ra, rủi ro nợ tiềm ẩn bị che giấu vì không tính khoản vay nước ngoài vào chỉ tiêu nợ quốc gia có thể làm giảm minh bạch tài khóa, che giấu nợ thực tế của khu vực doanh nghiệp và khu vực IFC.

Ngoài ra, các rủi ro cũng có thể đến từ chính những người chơi trong trung tâm này. Chẳng hạn các định chế lớn có thể tận dụng những kẽ hở để lách quy định về quản lý rủi ro, phân loại tài sản hoặc kế toán lợi nhuận. Hay khung sandbox là một công cụ quan trọng để thúc đẩy đổi mới tài chính, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu năng lực giám sát không theo kịp đổi mới, theo ông Tuấn.

Mở cửa có kiểm soát

Từ góc độ nhà đầu tư, theo Jason Hoang, CEO của InvestStream (Singapore), việc kiểm soát vốn chặt chẽ khiến các công ty tài chính, công nghệ toàn cầu không mặn mà với việc đầu tư hay đặt trụ sở tại Việt Nam. Lý do đơn giản là họ không thể thực hiện các giao dịch quốc tế, khiến thị trường trở nên bị cô lập và quá nhỏ bé. Thiếu tự do lưu chuyển vốn sẽ là trở ngại chính ngăn cản Việt Nam trở thành một IFC, trong khi ở những thị trường khác có thể “chậm” ở một số mặt, nhưng lại có ưu thế về dòng vốn ra vào.

Ông Chua Hak Bin, Kinh tế trưởng, Tập đoàn Ngân hàng đầu tư Maybank (Singapore), cho rằng với tình hình hiện nay, các biện pháp kiểm soát vốn của Việt Nam sẽ vẫn được áp dụng và hạn chế việc chuyển tiền bằng đồng nội tệ. Do đó, các tổ chức tài chính nước ngoài sẽ phải đối mặt với những hạn chế trong việc tiếp cận tiền gửi bằng đồng nội tệ và cung cấp các sản phẩm tài chính bằng tiền đồng.

Tuy nhiên, theo thời gian, IFC sẽ phải làm việc với ngân hàng trung ương và cơ quan quản lý để đảm bảo khả năng chuyển đổi hoàn toàn và tự do của tiền đồng trong các IFC, xóa bỏ rào cản lớn đối với tài chính quốc tế xuyên biên giới. “Những biện pháp bảo vệ này có thể cần thiết trong giai đoạn đầu phát triển, nhưng cần được xem xét và nới lỏng liên tục trong những năm tới để phát triển và mở rộng lĩnh vực tài chính”, ông nói.

Bài học của Singapore và Hong Kong cho thấy tự do hóa có điều kiện đi kèm giám sát “siêu chặt”. Singapore đặc biệt nổi bật với mô hình sandbox kiểm soát chặt, cho phép thử nghiệm nhưng có biên giới pháp lý rõ ràng.

Yếu tố quyết định là môi trường pháp lý minh bạch, năng lực giám sát cao, hệ thống xử lý khủng hoảng chuyên nghiệp và ổn định chính trị vững chắc. “Điểm mấu chốt là tự do tài chính không đồng nghĩa với thả nổi. Tự do hóa đòi hỏi năng lực điều hành vĩ mô vượt trội và sự chủ động trong kiểm soát rủi ro”, ông Tuấn nói.

Tương tự, theo ông Huân, một IFC có “độ mở lớn” không đồng nghĩa nới lỏng vô điều kiện. Các trung tâm dẫn đầu đều kết hợp mở, thử nghiệm và giám sát trong một kiến trúc pháp lý rõ ràng, dịch vụ công nhanh, cơ chế tài phán tương thích quốc tế và kỷ luật phòng chống rửa tiền nghiêm khắc.

Bên cạnh đó, gợi ý của ông Huân là nếu dự thảo hướng đến cơ chế hạn chế tiền đồng trong IFC, có thể cân nhắc từ việc “cấm theo danh mục” sang “cho phép có điều kiện” dựa trên tiêu chí an toàn vĩ mô, để không vô tình “làm nghèo đi” tính hữu dụng của IFC đối với các nhà đầu tư tổ chức.

Theo ông Tuấn, việc dỡ bỏ các rào cản tài chính cần đi kèm điều kiện rõ ràng, được thực hiện theo từng giai đoạn với các tiêu chí “đóng hoặc mở” cụ thể dựa trên chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô, mức độ hoàn thiện thể chế và khả năng giám sát rủi ro.

Ngoài ra, hệ thống tài chính cũng cần nâng cao năng lực nội tại và khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, thiết lập một hệ thống phòng vệ tài chính chủ động; loại bỏ tâm lý “sẽ được cứu” khi gặp khó khăn.

Lộ trình mở cửa cần ưu tiên thu hút dòng vốn dài hạn, vốn đầu tư mạo hiểm và vốn phục vụ sản xuất, thay vì khuyến khích dòng vốn ngắn hạn mang tính đầu cơ, dễ đảo chiều khi thị trường biến động. “Tránh tâm lý nôn nóng hoặc chạy theo áp lực quốc tế mở cửa quá nhanh khi năng lực ứng phó nội địa chưa đáp ứng yêu cầu”, ông Tuấn bình luận.

Tương tự, ông Chua Hak Bin cho rằng xây dựng một trung tâm tài chính quốc tế tại cả TPHCM và cả Đà Nẵng là một dự án dài hạn đầy tham vọng và phức tạp. “Việc xây dựng một IFC nên được xem là một dự án có chủ đích và được chia thành nhiều giai đoạn trong nhiều thập kỷ, thay vì chỉ vài năm”, ông nói.

Dũng Nguyễn

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/mo-cua-dong-von-vao-ifc-muon-tang-toc-phai-that-day-an-toan/