Mô hình 'thành phố bọt biển': Hướng đến tương lai bền vững cho các đô thị
Mô hình thành phố bọt biển đang được đánh giá có hiệu quả cao hướng tới tương lai 'sống cùng nước' trước các tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
"Thành phố bọt biển" là loạt giải pháp cho các đô thị nhằm đảo ngược thực trạng ngập lụt đang ngày càng gia tăng do đô thị hóa và biến đổi khí hậu.
Giải pháp này có thể hiểu ngắn gọn sẽ thực hiện bằng cách hấp thụ lượng nước mưa lớn và cho nó từ từ chảy vào các hồ chứa và sông. Sử dụng mô hình vườn trên mái, công viên đầm lầy, vỉa hè thấm nước và bể chứa ngầm. Qua đó làm giảm tác động của ngập lụt và trữ nước cho mùa khô hạn.
Khái niệm "thành phố bọt biển" (sponge city) theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) được dùng để mô tả các khu đô thị có khả năng "ngậm nước" cao như miếng bọt biển, thông qua giải pháp như cây xanh, hồ nước, công viên, hoặc cấu trúc phù hợp giúp hấp thụ nước mưa và ngăn ngừa ngập lụt.
Đây là sáng kiến xuất phát từ Trung Quốc và đã được áp dụng tại nhiều thành phố trên thế giới. Duyệt Lai là một trong số địa điểm thí nghiệm của chính phủ Trung Quốc. Công viên Trung tâm Triển lãm của thành phố được đặt thấp hơn các khu vực xung quanh để thu nước mưa, được lọc thông qua các lớp thực vật thủy sinh. Nước mưa rơi xuống mái nhà sẽ được dẫn tới các công viên gần đó hay các vỉa hè được làm từ vật liệu dễ thấm hút.
Năm 2019, khoảng hai phần ba các thành phố ở Đức đã yêu cầu đưa mái xanh vào kế hoạch phát triển, với lớp thể thực vật trung bình tối thiểu 10 cm. Một số thành phố hỗ trợ đến 50% chi phí đầu tư, tương đương 10-100 euro mỗi m2 và 500-100.000 euro mỗi dự án mái xanh.

Các thành phố ở Trung Quốc đang hiện thực hóa một sáng kiến được gọi là ‘thành phố bọt biển’. Ảnh: DW.
Thay vì dựa vào ‘cơ sở hạ tầng xám’ của bê tông, đê điều, đường ống, đập và kênh, các ‘thành phố bọt biển’ sẽ cho phép những khu vực đô thị hấp thụ nước trong thời điểm lượng mưa dâng cao do mưa lớn kéo dài, đồng thời giải phóng lượng nước khi các thành phố bước vào khoảng thời gian hạn hán.
Những ‘thành phố bọt biển’ cũng có thể giúp chống lại biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học.
Khi biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan cũng xảy ra thường xuyên hơn. Điều này thậm chí còn mang đến lượng mưa khó lường hơn cho các thành phố và có nguy cơ áp đảo các hệ thống hiện tại.
Cơ sở hạ tầng của ‘thành phố bọt biển’ đòi hỏi ít năng lượng hơn nhiều để duy trì khi so sánh với ‘cơ sở hạ tầng xám’, có thể giảm tải áp lực cho các cơ sở xử lý nước, trong khi hiệu ứng giảm nhiệt sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào điều hòa không khí. Việc xây dựng đòi hỏi ít tài nguyên hơn, đặc biệt là ít bê tông hơn, đồng thời các ‘thành phố bọt biển’ sẽ có những không gian xanh rộng lớn hấp thụ carbon dioxide.
Tại Việt Nam, mới đây đại diện các doanh nghiệp châu Âu cũng đã đề xuất TP Hồ Chí Minh cần xây dựng 'thành phố bọt biển'. Theo Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Italy (Icham) Michele D'Ercole, TP Hồ Chí Minh là đô thị của sông ngòi, kênh rạch, dễ tổn thương trước tác động nước biển dâng và ngập lụt. Vì vậy, mô hình "thành phố bọt biển" là cách để ứng phó.
Ông Thue Quist Thomasen, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Bắc Âu tại Việt Nam (NordCham) khuyến khích áp dụng giải pháp dựa trên tự nhiên như "thành phố bọt biển" tích hợp hành lang xanh lam, phục hồi rừng ngập mặn để tăng khả năng phòng chống lũ lụt, làm mát đô thị và đa dạng sinh học.
Hiện TP Hồ Chí Minh cũng có một số giải pháp tương tự ý tưởng "thành phố bọt biển", như xây hồ chứa. Tháng 10, Trung tâm Phát triển hạ tầng kỹ thuật khu vực Thủ Đức đề xuất xây hồ điều tiết ngầm dưới sân bóng đá Linh Tây, khả năng trữ 13.000 m3 nước, giúp xử lý những khu vực ngập sâu trong khu vực.
Trước đó, thành phố từng đặt mục tiêu xây bảy hồ điều tiết (một hồ hở, sáu hồ ngầm) thuộc kế hoạch chống ngập từ năm 2021, trong đó dự án hồ Gò Dưa rộng 20 ha tại Thủ Đức với tổng vốn hơn 1.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, các dự án đến nay vẫn "đứng yên" do vướng mắc về quy chuẩn kỹ thuật, đơn giá và nguồn vốn.

Người dân lội nước trong một trận ngập ở TP Hồ Chí Minh.
Vừa qua, tại các đô thị lớn tại Việt Nam như: Hà Nội, Huế, Đà Nẵng... đã hứng chịu nhiều thiệt hại do mưa lũ bất thường. Do đó, bên cạnh các biện pháp ứng phó với thiên tai, 'thành phố bọt biển' nên được xem xét như một giải pháp mới và phù hợp dựa trên các kinh nghiệm quốc tế.
Ví dụ như tại Hà Nội, lợi thế là chuỗi hồ – công viên dày nhưng “điểm nghẽn” lại nằm ở cấp ô phố: bề mặt thấm thấp, thiếu không gian trữ nước tạm trong khu dân cư. Việc nên làm ngay là chuẩn hóa vật liệu thấm khi cải tạo vỉa hè; bố trí rãnh sinh học có mép tràn thấp trên các tuyến dốc về hồ; yêu cầu tỷ lệ diện tích thấm tối thiểu và khuyến khích mái xanh trong dự án mới; tổ chức sân trường, sân thể thao, bãi đỗ xe theo hai cao trình để chứa nước vài giờ rồi khô nhanh. Các giải pháp này đều có “mẫu” kỹ thuật sẵn trong nước, có thể áp dụng theo từng tuyến phố để thấy hiệu quả theo trận mưa.
Với Đà Nẵng, địa hình trục sông đổ ra biển thuận lợi cho hành lang nước gắn công viên. Một quận thường ngập có thể được chọn làm thí điểm 12–24 tháng: vỉa hè lát thấm, rãnh sinh học dọc trục phố hướng dòng về sông, hồ điều tiết ngầm dưới công viên, mái xanh bắt buộc với khối công trình lớn ở trung tâm. Khi lớp phân tán này vận hành tốt, áp lực lên trạm bơm đúng giờ cao điểm mưa gió sẽ hạ đi trông thấy.
Với Huế, “bọt biển” phải đi cùng gìn giữ di sản mặt nước. Cần nối lại mạch nước giữa hệ hồ – hào Kinh thành với các mặt nước mới, trả bãi sông làm vùng ngập an toàn, tổ chức cảnh quan hai bờ sông Hương như công viên ngập tạm với cao trình hợp lý để nước tràn không gây nguy hiểm. Ở các tuyến hay ngập, vườn mưa – rãnh sinh học trồng cây bản địa là giải pháp nhẹ, dễ chăm sóc, hợp cảnh quan.
Dù mang lại nhiều lợi ích về môi trường, kinh tế và khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, việc triển khai mô hình “thành phố bọt biển” vẫn đối mặt với nhiều thách thức thực tế.
Một trong những khó khăn lớn là hạn chế về không gian và quyền sở hữu đất. Ngoài ra, áp lực phát triển đô thị với nhu cầu nhà ở và hạ tầng ngày càng tăng thường lấn át không gian dành cho thiên nhiên, làm giảm “độ bọt biển” của thành phố. Cuối cùng, chi phí đầu tư ban đầu cho việc xây dựng hoặc cải tạo hạ tầng xanh là không nhỏ, đòi hỏi sự phối hợp liên ngành giữa quy hoạch đô thị, môi trường, tài chính và cộng đồng – một thách thức không dễ vượt qua trong thực tế triển khai.
Tuy nhiên, trước những thách thức của biến đổi khí hậu, tần suất mưa lũ ngày càng gia tăng, 'thành phố bọt biển' có thể xem là tương lai mà Đà Nẵng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị Việt Nam có thể hướng tới, nếu chúng ta dám thay đổi ngay từ hôm nay.
Thành phố bọt biển không chỉ là một dự án hạ tầng, mà là một lựa chọn văn minh. Đó là lựa chọn sống hài hòa với thiên nhiên, để thế hệ mai sau được thừa hưởng một đô thị an toàn, xanh mát và nhân văn.











