Mở lại phiên tòa sau 1 tháng thu thập thêm chứng cứ

Theo VKS, bị đơn là đối tượng được xem xét cấp quyền sử dụng đất; còn UBND huyện thì cho rằng cấp giấy chứng nhận cho nguyên đơn là không đúng Luật Đất đai.

Ngày 26-7, sau thời gian tạm ngưng phiên tòa để thu thập thêm chứng cứ về nguồn gốc đất tranh chấp, TAND tỉnh Bến Tre sẽ mở lại phiên tòa phúc thẩm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa nguyên đơn là bà PTOE, ông PVH và bị đơn là bà Nguyễn Thị Bạch Yến, ông Võ Văn Rỡ.

VKS đề nghị hủy án

Tại phiên tòa ngày 24-6, đại diện VKS đề nghị hủy án sơ thẩm vì việc tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa xem xét toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; đối với phần đất đang tranh chấp, bà Yến là người sử dụng canh tác từ trước đến nay nên bà là đối tượng được xem xét cấp QSDĐ theo quy định.

 Bà Nguyễn Thị Bạch Yến và ông Võ Văn Rỡ tại phiên tòa phúc thẩm ngày 24-6. Ảnh: ĐÔNG HÀ

Bà Nguyễn Thị Bạch Yến và ông Võ Văn Rỡ tại phiên tòa phúc thẩm ngày 24-6. Ảnh: ĐÔNG HÀ

Quá trình tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm, bị đơn từng nộp đơn đề nghị thay đổi HĐXX, sau đó chánh án TAND tỉnh Bến Tre đã quyết định thay một thành viên trong HĐXX.

Theo nội dung vụ án, tháng 3-2008, bà E và ông H cùng nhận chuyển nhượng mỗi người khoảng 2 ha đất tại xã Đại Hòa Lộc, huyện Bình Đại, Bến Tre từ bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và bà Nguyễn Thị Lâm (đều là chị ruột của bị đơn Nguyễn Thị Bạch Yến). Nguyên đơn đã được UBND huyện Bình Đại cấp giấy chứng nhận (GCN) QSDĐ đối với hai thửa đất đã nhận chuyển nhượng.

Theo nguyên đơn, từ năm 2012, bị đơn đã đưa máy móc vào khu vực trước mặt tiền đất của nguyên đơn, đào đất độ sâu 1,5 m và lấn ngang toàn bộ mặt tiền khoảng 210 m, vào sâu khoảng 30 m để trồng cây đước làm hàng rào che chắn, không cho các nguyên đơn vào sử dụng đất.

Từ đó, nguyên đơn đi kiện để đòi bị đơn trả lại diện tích 5.984 m2 đất, di dời các cây đước ra khỏi đất.

Xử sơ thẩm vào tháng 2-2024, TAND huyện Bình Đại tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người liên quan (UBND xã và UBND huyện Bình Đại).

Kháng cáo vì giấy xác nhận chia đất cho con chưa được xem xét

Cho rằng bản án sơ thẩm chưa xem xét đến chứng cứ là giấy xác nhận chia đất cho các con của bà Nguyễn Thị Lời (mẹ bà Yến, bà Lâm, bà Tuyết), chưa xem xét đến những nội dung mà người liên quan đã nêu ra; bị đơn kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 24-6, bị đơn trình bày rằng trước thời điểm cấp GCN QSDĐ cho hai nguyên đơn thì phần diện tích đất từ mí Huyện lộ (HL) 40 vào 20 m do ông bà sử dụng trồng đước, suốt 35 năm nay không ai tranh chấp cản trở; còn việc chuyển nhượng của hai nguyên đơn với gia đình hai người chị chỉ diễn ra trên giấy, chưa bàn giao trên thực tế.

Bị đơn sử dụng đất ổn định 35 năm nay

Theo giấy xác nhận về việc xác định chia đất đai cho con ruột ngày 4-12-2012 và biên bản về việc chia đất cho con thì phần diện tích đất mà bà Lời chia cho ba người con gồm hai thửa đất liền kề nhau, trong đó:

- Thửa 01: Bà Lời vẫn sử dụng, sau này cho lại bà Yến, bà Yến sử dụng liên tục đến nay.

- Thửa 02: Thửa Nhà nước trả lại, diện tích khoảng 6 mẫu, có bờ ranh từ lộ vào 20 m. Bà Lời chia đều Thửa 02 cho ba người con, mỗi người được khoảng 2 mẫu. Tại biên bản lấy lời khai ngày 31-7-2013, bà Lời đã tiếp tục khẳng định nội dung này.

Phần đất mà hai người chị của bà Yến và hai nguyên đơn mua bán, chuyển nhượng không liên quan đến Thửa 01.

Theo Điều 7 hợp đồng chuyển nhượng đất giữa hai nguyên đơn và hai người chị của bị đơn thì thời điểm chuyển nhượng đất, các bên đã biết và thừa nhận phần diện tích đất cập HL40 (từ mép HL40 vào sâu 20 m) không thuộc quyền sở hữu của bà Tuyết và bà Lâm (người chuyển nhượng). Do đó, người chuyển nhượng không có quyền chuyển nhượng.

Tại thời điểm mẹ bà Yến chia đất cho các con, HL40 chưa hình thành, chỉ là con đường mòn dẫn vào phần đất của người dân. Phần đất của bà Yến được mẹ cho toàn quyền sử dụng, định đoạt có mặt trước giáp với HL40. Bị đơn quản lý và trồng cây đước trên phần đất này từ năm 1989.

Khoảng năm 1992, Nhà nước đắp đê bao nước ngọt trên cơ sở có sẵn con đường mòn. Do phải lấy đất để làm đê bao nên Nhà nước móc đất để làm nên mới hình thành con mương và sau đó hình thành HL40.

Bên cạnh đó, vào năm 2008, khi hòa giải thành tại UBND xã Đại Hòa Lộc, phần đất từ mí HL40 vào 20 m do vợ chồng bị đơn quản lý, sử dụng. Còn đất do Nhà nước quản lý, UBND xã đã tiến hành đo đạc cắm ranh (trụ bê tông vẫn còn).

Từ đó, bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố, yêu cầu tuyên hủy các hợp đồng chuyển nhượng và hủy các GCN đã cấp cho nguyên đơn.

Về phía người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, UBND huyện Bình Đại xác nhận đã cấp GCN cho nguyên đơn sai quy định của Luật Đất đai. Bởi việc cấp đất cho bà Lâm và bà Tuyết trước đây có chừa ra phần đất và kênh cập HL40 vào sâu 20 m, tuy nhiên sau này khi ông H và bà E nhận chuyển nhượng thì huyện lại cấp GCN QSDĐ đấu vô HL40 bao gồm đất công cộng (kênh thủy lợi). Từ đó, UBND huyện Bình Đại đề nghị tòa hủy một phần GCN đã cấp để điều chỉnh lại.

Trước đó, ngày 5-10-2017, UBND huyện Bình Đại có chỉ đạo xử lý GCN QSDĐ cấp không đúng quy định. Trong đó, UBND huyện giao Phòng TN&MT tham mưu cho UBND huyện thu hồi GCN đã cấp cho ông H và bà E.•

VKS: Bị đơn là đối tượng được xem xét hợp thức hóa quyền sử dụng đất

Phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đại diện VKSND tỉnh Bến Tre nêu rằng phần đất đang tranh chấp do bà Yến canh tác kể từ khi được mẹ cho đất. Bà Yến sử dụng phần đất này được những người làm chứng có mặt tại phiên tòa xác nhận, tuy nhiên phần đất này chưa được cấp GCN QSDĐ cho bà Yến. Hai người chị của bà Yến không sử dụng phần đất này.

Theo giấy xác nhận chia đất cho ba người con, bà Lời chia cho con gái út Bạch Yến Thửa 01. Ảnh: ĐÔNG HÀ

Ngày 4-5-2000, bà Lâm được UBND huyện Bình Đại cấp GCN QSDĐ với diện tích 20.973 m2. Ngày 21-5-2004, bà Tuyết được cấp GCN QSDĐ với diện tích 21.865 m2. Các thửa đất này đều có phần đất giáp bề mặt phần đất do UBND xã Đại Hòa Lộc quản lý.

Ngày 27-3-2008, vợ chồng bà Lâm và vợ chồng bà Tuyết chuyển nhượng các thửa đất trên cho ông H và bà E. Diện tích các thửa đất này đi theo GCN QSDĐ đã cấp cho bà Lâm, bà Tuyết trước đó mà không được đo đạc lại.

Khi ông H và bà E được xét cấp GCN QSDĐ theo số liệu đo đạc chính quy nên được cấp luôn phần đất do UBND xã Đại Hòa Lộc quản lý và diện tích thửa mới được cấp tăng lên.

Cụ thể thửa có diện tích 20.973 m2 thành hai thửa mới có tổng diện tích 22.038 m2. Thửa có diện tích 21.865 m2 thành thửa mới có diện tích 22.074 m2.

VKS cho rằng GCN QSDĐ được cấp cho ông H và bà E là chưa đúng quy định của pháp luật vì đã bao trùm diện tích đất sử dụng vào mục đích công cộng cập HL40 do UBND xã Đại Hòa Lộc quản lý nên cần phải hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Lâm, bà Tuyết cho ông H và bà E.

Về phần đất đang tranh chấp, bà Yến là người sử dụng canh tác từ trước đến nay nên bà là đối tượng được xem xét hợp thức hóa QSDĐ theo quy định.

VKS nêu quan điểm việc bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H và bà E là chưa xem xét toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên cần hủy án sơ thẩm giao về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định.

VKS đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà Yến, ông Rỡ; hủy bản án sơ thẩm, giao TAND huyện Bình Đại xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

ĐÔNG HÀ

Nguồn PLO: https://plo.vn/mo-lai-phien-toa-sau-1-thang-thu-thap-them-chung-cu-post801878.html