Mới: Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn điều kiện hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

Mới đây, TAND Tối cao vừa có Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 2015 về điều kiện hoãn, cách xác định thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.

Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 60, 62, 63, 64, 67, 68 và 105 BLHS 2015 sửa đổi về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

Về điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù, theo Điều 7 Nghị quyết 03/2024, người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt theo Điều 67 BLHS 2015 khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện:

Thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 67 BLHS 2015. Trường hợp là phụ nữ có thai thì sẽ không phân biệt họ cố tình có thai và sinh con liên tục để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không; Hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi không phân biệt là con đẻ hay con nuôi thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

Có nơi cư trú rõ ràng, cụ thể là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú 2020 mà người bị xử phạt tù về cư trú, sinh sống thường xuyên; Sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn.

Tòa án cũng có thể cho người bị xử phạt tù thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS 2015 nhưng không đáp ứng một trong các điều kiện theo hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 03/2024 được hoãn chấp hành hình phạt tù nhưng phải gắn với hoàn cảnh đặc biệt và phải xem xét thận trọng, chặt chẽ.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 03/2024 cũng hướng dẫn cách xác định thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.

Cụ thể, thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù đối với trường hợp tại Điểm a Khoản 1 Điều 67 được tính từ ngày Tòa án ban hành quyết định cho đến khi sức khỏe của người bị xử phạt tù được hồi phục.

Thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù đối với trường hợp tại các Điểm b, c và d Khoản 1 Điều 67 được tính từ ngày Tòa án ban hành quyết định cho đến khi kết thúc thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù mà Tòa án quyết định.

Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù mà người được hoãn chấp hành hình phạt tù lại có thai hoặc phải tiếp tục nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì Tòa án có thể quyết định cho họ được hoãn đến khi đứa con sau cùng đủ 36 tháng tuổi.

Người được hoãn chấp hành hình phạt tù theo điểm c hoặc d Khoản 1 Điều 67 BLHS 2015 thì có thể được hoãn một hoặc nhiều lần, nhưng tổng số thời gian được hoãn tối đa đến 1 năm.

Cũng theo Nghị quyết 03/2024, người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 67 BLHS 2015 và có nơi cư trú rõ ràng thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

Theo đó, thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù sẽ được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 67 BLHS 2015.

Trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần cho đến khi sức khỏe hồi phục.

Nếu người đang chấp hành hình phạt tù là lao động duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu công vụ thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần, song, tổng số thời gian được tạm đình chỉ tối đa là 1 năm.

Nguồn ANTĐ: https://anninhthudo.vn/moi-toa-an-nhan-dan-toi-cao-huong-dan-dieu-kien-hoan-tam-dinh-chi-chap-hanh-hinh-phat-tu-post583882.antd