Một cuộc đời luôn mang nặng ân tình
Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn, nhà nghiên cứu lý luận, nhà phê bình văn học nghệ thuật hiện đại thế kỷ XX. Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan (ghi trong gia phả là Phan Ngọc Hoan Châu). Theo gia phả thì ngài thế tổ của ông (đời thứ 3 tại Quảng Trị) có công lập nên làng An Xuân, xã Cam An, huyện Cam Lộ - một ngôi làng nhỏ nép mình bên con đường Xuyên Á chạy về cảng Cửa Việt.
Về nơi sinh của ông trong bài thơ: “Gửi Trạng Thông họ Hoàng” (Tức nhà thơ Hoàng Trung Thông) - Trích trong di cảo thơ có đoạn viết: “... Tôi sinh ở Châu Hoan, chứ đâu Quảng Trị; lý lịch có lắm điều chưa cụ tỉ, rồi sau sẽ bàn. Quảng Trị vốn là quê mẹ. Gió Lào râm ran...Đẻ ở Châu Hoan xứ Nghệ. Mẹ kêu “Thằng Hoan”... Tôi còn để lại chùm nhau. Mẹ chôn ở Nghệ An. Có còn không nhỉ? Một thời Chế Lan Viên sống ở Nghệ An, Bình Định, nơi cha của ông làm đề lại nhiều năm. Khi lớn lên ông đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, một trong những tác phẩm nổi bật trong thi đàn tiền chiến.
Huyện An Nhơn, Bình Định - nơi có nhiều tháp Chàm cổ - đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ một thời, có thể xem là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên. Về bút danh Chế Lan Viên, có rất nhiều thắc mắc và suy diễn, để rõ thêm về điều này ta hãy nghe thi sĩ họ Phan tâm sự: “Tôi làm thơ lúc 12-13 tuổi ở huyện lỵ An Nhơn. Lủi thủi làm và cũng không ý thức đó là thơ. Ký những cái tên chỉ là địa danh ngoài Quảng Trị: Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Phải xuống Bình Định gặp Yến Lan, có bạn thơ soi vào nhau thì tôi mới hiểu ý nghĩa của việc làm thơ và có danh hiệu cho mình: Lan Viên. Chắc là bị ảnh hưởng bởi tên Lan của bạn và vườn lan của bạn... Cũng từ đấy, trước chữ Lan Viên bỗng thêm chữ Chế. Vì sao có chữ Chế ấy? Chỉ biết rằng trong tập “Nắng xuân” có một bài Hàn Mạc Tử tặng cho tôi. Bài “Thi sĩ Chàm” tặng Chế Bồng Hoan. À, thì ra còn cả cái tên đó nữa. Có lẽ Tử đặt cho chăng? Với chữ Chế, dù là Chế Lan Viên hay Chế Bồng Hoan, tôi đã rời số phận một người để sống số phận một dân tộc. Thơ cũng chuyển địa bàn, đi từ một nhiệm vụ này đến một nhiệm vụ khác, gần kề lịch sử hơn, gần kề chính trị hơn”.
Có một điều thật ngẫu nhiên khi điểm qua một số địa danh từng gắn bó với cuộc đời Chế Lan Viên, An Xuân (xã Cam An, huyện Cam Lộ) là quê cha, quê mẹ nằm cạnh làng An Bình (xã Cam Thanh, huyện Cam Lộ); An Hưng - nơi chi tộc gần nhất của ông lên lập nghiệp (nay thuộc thị trấn Cam Lộ). Tỉnh Nghệ An; huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định là những nơi một thời ông theo cha sinh sống, lớn lên và bắt đầu những câu thơ đầu đời. Tân Bình (TP. Hồ Chí Minh) là nơi nâng niu cuộc sống của ông những năm tuổi già, ta vẫn thấy hình như hai chữ “An”, “Bình” luôn đồng hành với ông trong suốt cuộc đời.
Khi nói về Chế Lan Viên, người ta thường cho rằng ông là con người bộc trực, có rất nhiều giai thoại về tính bộc trực có khi thất thường và nặng phần nóng nảy của ông. Hầu như ông đã “đụng” rất nhiều các bạn văn, bạn thơ, kể cả các đàn anh như nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, hay nhà báo Phan Khôi. Nhưng trên tất cả, đó là sự đấu tranh để tôn vinh chân lý, để nâng cao các tư tưởng, trao đổi học thuật. Âu đó cũng là cái nghiệp đã vận vào ông như là để đưa ông trở thành một chiến sĩ trên thi đàn, một đời tận tụy vì thơ, vì cuộc sống. Cũng trong “Gửi Trạng Thông họ Hoàng” ông tâm sự: “Ông thì hay say/ Tôi thì quá tỉnh/ Mà ông đằm tính/Tôi lại hay gây/Thiên hạ người người yêu ông/Tôi thiên hạ ghét/....Thế mà lạ không? Hai đứa thân nhau mãn kiếp...”.
Chế Lan Viên là một trong những con người hoài cổ. Nỗi niềm hoài cổ của ông bắt đầu từ sự nhạy cảm hiếm có vượt ra ngoài các giới hạn thông thường nhất, cái nhạy cảm đưa ông đến với thế giới siêu hình, thế giới của vong quốc cổ xưa với những thân phận bị đọa đày đầy tiếng rỉ rên than. Sự nhạy cảm đến lạ lùng về cuộc sống mà ông có được phải chăng là từ sự kết tinh của gia đình ông, nơi người cha, một viên chức mẫn cán, một phật tử tại gia thành tâm, một người suốt đời chăm lo cho gia đình, họ tộc với người mẹ- người cùng làng An Xuân - suốt một đời lam lũ theo chồng nuôi con khôn lớn. Nên dù có ẩn sau cái tính cách bộc trực nóng nảy và thích đối diện ấy thì ở ông vẫn luôn thường trực một tâm hồn đa cảm và đôi khi yếu đuối.
Niềm hoài hương của ông cũng bắt nguồn từ một tình yêu có được từ đáy lòng mình về quê hương xứ sở, về mảnh đất nghèo nơi nuôi dưỡng tâm hồn ông lớn lên. Cũng từ chiếc nôi làng xóm, họ tộc, từ cái quê nghèo đó đã đưa ông đến với đất nước rất đỗi thiêng liêng và đến với toàn nhân loại. Ông luôn cảm thông với quê hương của mình: “Tự quê mẹ nghèo, tự đời mẹ khổ/Tự giọt lệ khóc tù đi biệt xứ…Ôi gió Lào ôi! Người đừng thổi nữa/Những ruộng đói mùa những đồng đói cỏ/Những đồi sim không đủ quả nuôi người/Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười… ”. Cũng chính vì đau đáu một niềm thương với quê cũ, nên trong dịp về Cam Lộ khi là đại biểu Quốc hội (đại diện khu vực Bình Trị Thiên) ông đã cảm động đến rưng rưng khi nhìn thấy dòng nước của trạm bơm Nam Thành (nay thuộc thị trấn Cam Lộ) đã tưới mát cho “Những ruộng đói mùa những đồng đói cỏ” trong tiềm thức của mình. Tôi vẫn nhớ những dòng thư chân tình ông viết vội gửi lại cho cha tôi ngày ấy với nét bút run run bằng tay trái.
Chế Lan Viên luôn trăn trở với chức năng, sứ mệnh của thơ và nhà thơ. Ông cho rằng thơ cần sự mê hoặc, chất tư tưởng, thể hiện được cái chung và cái riêng, có tính hùng ca mà có cả tình ca, trong thơ luôn vừa có chân, vừa có ảo. Muôn mặt cuộc sống đều được ông thể hiện bằng đủ các loại hình thức nghệ thuật thơ. Phải chăng cuộc đời Chế Lan Viên luôn vật lộn với thi ca ở mọi góc độ của nó, nên những lúc trên giường bệnh, những ngày cuối đời ông vẫn thấy cần làm nhiều hơn thế nữa. Ông chạy đua với chút thời gian còn lại không nhiều của mình như ông từng trăn trở với “Xâu kim”- rút trong di cảo: “Tay cầm kim tay cầm sợi chỉ/Vừa chạy vừa xâu không một phút dừng/Chạy một đời rụng hết cả thanh xuân/Kim run run và chỉ rung rung/Có lúc chính là kim ngọ nguậy/ Có lúc chỉ lọt vào rồi lại sẩy/Xâu vừa xong, gió tuột nửa chừng”... Và ông vẫn đau đáu một điều rằng, thơ trên mặt giấy hai chiều kia không tải nổi cái phức tạp ba chiều và đa chiều của cuộc sống, đó cũng chính là cái triết lý “Thơ bình phương, đời lập phương” mà ông từng đeo đuổi.
Chế Lan Viên luôn trăn trở và cảm thấy một phần trách nhiệm của mình với vai trò là người nghệ sĩ và chiến sĩ trước vận mệnh dân tộc, cả trong chiến tranh gian khổ và cả trong những năm tháng hòa bình chưa hẳn trọn niềm vui này. Chính những gì ông trăn trở, ông dấn thân, một lần nữa lại thành tựu, lại kết tinh trong “Di cảo thơ” mà nhà văn Vũ Thị Thường - con người gắn bó, sẻ chia với ông những cung bậc tình cảm, những tâm tư về cuộc sống hơn 30 năm cuối của cuộc đời ông- đã trân trọng, sưu tập và nâng niu để một lần nữa đưa ông trở lại vị trí đặc biệt trên thi đàn đương đại.
Trên bình diện văn hóa, có thể nói Chế Lan Viên thật sự là sứ giả của văn hóa Việt Nam trên các diễn đàn văn hóa quốc tế, ở đó tiếng nói của ông lay động lương tri nhân loại, là tiếng thơ reo vui, là tiếng lòng thổn thức, là sự thăng hoa của ngôn từ ở tầm triết học. Ông từng nói: “Phải hết sức coi trọng vốn dân gian, vốn dân tộc của mình. Và càng đi sâu vào vốn dân tộc, ta càng gặp nhân loại. Một dân tộc có một mùa riêng của nó. Nhưng chớ tưởng rằng mùa mà các dân tộc khác gặt nơi xa lại không có hạt giống của nó ở đây, dân tộc ta có cái của ta. Nhưng dân tộc ta tự hào có tất cả cái gì nhân loại có”. Càng đọc về ông, chúng ta càng hiểu cách ông truyền bá văn hóa Việt đến bạn bè, cách ông tiếp cận và sẻ chia, trao đổi với văn hóa nhân loại đôi lúc nhẹ nhàng như khí trời và hơi thở.
Chế Lan Viên theo về cõi Phật đã hơn 30 năm mà cuộc đời và sự nghiệp như được kết tinh từ vị muối của đất vẫn luôn mang nặng ân tình. Xin thành kính thắp nén hương lòng đến cõi thiêng nơi linh hồn ông nương tựa, đến chùa Vĩnh Nghiêm nơi ông gửi gắm nhúm tro tàn.
Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/default.aspx?tabid=74&modid=421&itemid=152486