Một 'Huyền thoại Điện Biên' mới nơi cực Tây Tổ quốc
Chuyến trở lại Tây Bắc mấy tuần trước, tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Điện Biên. Cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải - đồn xa nhất trấn giữ ở điểm cực Tây Việt Nam. Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh văn phòng Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Điện Biên. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gắn bó với nhiều bạn bè lính biên phòng nhưng không hiểu sao cực Tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn 'thuộc về'.
Và để hình dung rõ nhất về sự đổi đời của Tây Bắc, có lẽ vùng đất cực Tây là một điển hình. Góp phần cho những đổi thay ấy ở đây, không ai khác chính là những người lính biên phòng. Cuộc gặp gỡ cà phê cuối tuần của mấy anh em chúng tôi trong không gian đất trời Điện Biên rạo rực chuẩn bị kỷ niệm 70 năm chiến thắng cứ lan man theo những miền ký ức.
Huyền thoại Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” của chiều 7/5/1954 đã đi vào lịch sử thế giới. Nhưng là một người viết gắn bó với vùng đất cực Tây Điện Biên hàng chục năm qua, hình ảnh những người lính đang góp sức làm thay da đổi thịt ở đây, với tôi đó cũng là một “huyền thoại Điện Biên Phủ mới” trong cuộc chiến với đói nghèo và lạc hậu, đem lại hạnh phúc cho người dân.
Góp phần làm nên huyền thoại ấy là những người lính quân hàm xanh trĩu nặng ân tình với từng phận đời, từng góc rừng, từng khe suối. Sẽ không quá lời nếu ví họ là huyền thoại khi những người lính ấy, trong mỗi đời dân đã hóa thành những vị “nhân thần”.
Tượng đài người lính biên phòng trong lòng dân
Người anh hùng đầu tiên của lực lượng “Công an vũ trang” - tức BĐBP ngày nay chính là một người lính biên phòng đầu tiên ở cực Tây, anh hùng Trần Văn Thọ. Giờ đây con phố ngang qua trụ sở Bộ Chỉ huy BĐBP Điện Biên mang tên Trần Văn Thọ. Trong những đồn biên phòng cực Tây có bức tượng của Trần Văn Thọ, trong những cụm tượng đài tưởng niệm có hình ảnh Trần Văn Thọ, nhưng sâu bền nhất vẫn là tượng đài người lính biên phòng Trần Văn Thọ được dựng trong lòng dân biên ải cực Tây.
Câu chuyện về anh hùng Trần Văn Thọ là một huyền thoại có giá trị như di sản tinh thần của bộ đội biên phòng, noi theo anh mà tận hiến cho Tổ quốc, cho những bà con gắn bó máu thịt, hòa quyện đời dân, đời lính. Anh hùng Trần Văn Thọ, người lính biên phòng quê Trấn Yên (Yên Bái) ấy khi lên thành lập đồn ở đây (1958) đã dạy cho bà con biết học cái chữ, làm lúa nước, đưa trẻ con ra huyện học trường dân tộc nội trú...
Người lính ấy khi về phép đã dành tiền mua lưỡi cày khoác sau ba lô mang lên đây rồi vào rừng đẵn cây đẽo cày dạy bà con cày ruộng. Khi vận động một cô gái Hà Nhì ở bản đi học, cô gái ấy bảo không ai chăm mẹ, anh bảo: Cứ đi học đi, anh sẽ cùng đồng đội mỗi ngày chăm bà. Cô gái ấy, sau này là bà Chu Chà Me, nguyên cán bộ phụ nữ tỉnh. Còn người lính biên phòng Trần Văn Thọ đã hy sinh sau một trận sốt rét vào năm 1961, khi ấy anh chỉ mới 26 tuổi. Bởi thế, trong tâm thức người dân vùng biên giới này, anh Thọ được tôn kính như một vị “nhân thần”.
Không nhớ hết chúng tôi đã bao nhiêu chuyến lên về với cực Tây A Pa Chải, đã từng nghe câu chuyện những năm 60-70, để đưa hàng lên đây, chính phủ phải cho máy bay trực thăng chuyên chở, nhưng chỉ những khi thật khẩn cấp. Chúng tôi cũng gặp một cô gái bán hàng tạp hóa kể về những năm đầu lên đây, cô thuê cả một đoàn ngựa thồ hàng từ Mường Tè vượt dốc Tà Tổng vào tới Leng Su Sìn để bán cho bà con. Vùng đất biệt lập ấy, qua thế kỷ 21 vẫn còn gian nan.
Đúng 15 năm trước, lần đầu tiên lên với cực Tây, đường sá, xe cộ lúc bấy giờ để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng về sự gian khổ nhưng ấn tượng nhất lại là khi vào đến Đồn Biên phòng A Pa Chải.
Đêm đầu tiên đến đồn, trong ánh sáng leo lét của ánh nến giữa đêm biên ải thâm u, không sóng điện thoại, không điện thắp sáng, đồn trưởng Nguyễn Đức Thắng áy náy bảo: “Đón các anh lên mà con trâu nó làm mất điện rồi”. Chúng tôi ngạc nhiên: Sao trâu lại làm mất điện? Hóa ra anh em có lắp cái máy thủy điện nhỏ dưới suối nhưng trâu bò thả rông của bà con đôi khi lại đạp đổ mấy hòn đá chắn đập, vậy là... mất điện.
Hôm gặp nhau nhắc lại kỷ niệm 15 năm trước, ai cũng bật cười. Thế nhưng phải 5 năm sau lần gặp đầu tiên ấy, đồn mới có điện lưới quốc gia dịp kỷ niệm 60 năm giải phóng Điện Biên. Và giờ đây thêm 10 năm trôi qua nữa, miền cực Tây Việt Nam đã thay da đổi thịt quá nhiều.
Sức hút từ điểm hẹn “cực Tây Việt Nam”
Từ khi mốc số 0 trên đỉnh núi Khoang La San, điểm mốc “3 biên giới” này trở thành một khát khao của những khách du lịch muốn chinh phục 4 cực Đông Tây Nam Bắc của nước Việt, thì điểm cực Tây này trở nên sôi động. Vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh biên giới quốc gia, vừa giúp dân thoát dần hủ tục, tiếp thu đời sống văn minh, đồng thời đồn cũng đứng chân trên một vị trí đặc biệt ý nghĩa là cực Tây Tổ quốc, những người lính biên phòng ở Đồn Biên phòng A Pa Chải đã làm quá tốt nhiệm vụ ấy.
Từ thời đồn trưởng Nguyễn Đức Thắng rồi đến sau này là đồn trưởng Đặng Tuấn cho đến bây giờ, qua bao thế hệ người lính kế tục nhưng bằng tình cảm nồng nhiệt của mình đã chinh phục những ai đến khám phá điểm cực này. Không ít người trong số du khách ấy, trong niềm trân quý chân thành đã trở lại cùng người dân, hỗ trợ cho dân những món quà ý nghĩa. Những ngôi trường cho các em được dựng thêm, những dịp như Tết Hà Nhì, cực Tây lại sôi động một dải biên cương thân yêu, đoàn kết và nồng ấm tình người.
Sẽ rất thiếu sót nếu không kể ra đây chi tiết nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn trong những câu chuyện về người lính với cực Tây này. Trong một lần trở lại A Pa Chải, vài anh em chúng tôi lên lại mốc số 0. Người chiến sĩ biên phòng dẫn đường là Giàng A Kháy, một chàng trai người Mông đang đi nghĩa vụ ở đồn. Khi lên đến cột mốc, chính Kháy đã nhắc anh em chỉnh đốn trang phục rồi trang nghiêm chào Quốc huy. Sau khi ăn trưa, anh em đang nghỉ ngơi lấy sức để leo xuống thì mình Kháy lặng lẽ thu dọn những gì vương vãi quanh cột mốc.
Trong hành động của Kháy ánh lên một tình yêu thiêng liêng với cột mốc chủ quyền, với biên giới quê hương. Nhưng lòng cảm phục với Kháy, người chiến sĩ dân tộc Mông chưa dừng lại ở đó. Trên đường từ mốc số 0 đi xuống, trên một thân cây cổ thụ sát bên đường, một nhành phong lan bị ai đó va quệt vào khiến cả khóm bị bong ra, treo lơ lửng.
Kháy bảo mọi người cứ thong thả xuống trước, còn mình đi kiếm một sợi dây rừng, khéo léo buộc nhành phong lan gắn chặt lại vào thân cây. Chỉ riêng hành động ấy thôi của người lính trẻ người Mông quê ở Điện Biên này đã nói với chúng tôi rất nhiều điều lớn lao.
Nghĩ đường đến tương lai của mảnh đất cực Tây, không thể không nghĩ về những người lính quân hàm xanh đã đến đây từ năm 1958, khi lập đồn trấn ải đầu tiên. Trên dặm dài biên giới của Điện Biên và cả vùng Tây Bắc, bao nhiêu năm đi đi, về về, cứ mỗi lần trở lại chúng tôi thấy có thêm những công trình mới.
Vậy nhưng Đồn Biên phòng Leng Su Sìn đầu tiên được lập ra từ năm 1958 ấy mãi mãi là những căn nhà gỗ, cũng là đồn được xây dựng sau cùng, sau hơn nửa thế kỷ đứng chân nơi đây. Đó cũng là một sự hy sinh thầm lặng khác. Giờ thì Đồn Biên phòng Leng Su Sìn đã được xây dựng đúng nghĩa với một đồn biên lịch sử, trước đồn có một cụm tượng đài, nhà bia, hoa cỏ... như một công viên văn hóa cho cả khu vực.
Hơn 15 năm trước, để chinh phục mốc số 0 ở A Pa Chải, chúng tôi phải dậy từ 4 giờ sáng, quần quật đến quá trưa mới lên được cột mốc và sau đó về lại đồn lúc 19 giờ đêm. Đấy là chưa kể nhiều đội leo bị lạc đường phải ở lại giữa rừng. Còn bây giờ để chinh phục cột mốc 0 này chỉ chưa tới một giờ đồng hồ. Xe máy sẽ đưa khách lên đến chân mốc, chỉ phải leo thêm mấy trăm bậc đá là chạm vào nơi linh thiêng của bản đồ Việt Nam: cực Tây Tổ quốc.
Đó cũng là một ngụ ngôn về hành trình của quân dân nơi miền biên viễn này: chặng đường dù khó khăn đang dần được rút ngắn. Và người rút ngắn những khó khăn ấy chính là những người lính biên phòng, là tâm huyết của những chỉ huy như Đại tá Nguyễn Đức Thắng, Trung tá Đặng Tuấn và rất nhiều người lính đã đến, đã đi, nhưng để lại cho cực Tây những yêu thương và đổi mới.