Một số trường thu hẹp phạm vi xét tuyển học bạ, vì sao?
Phương thức xét tuyển bằng học bạ vốn được nhiều trường sử dụng, song năm 2026 lại có chiều hướng thu hẹp.

Khá nhiều trường đã công bố dự kiến phương án tuyển sinh đại học năm 2026. Ảnh: Lê Nguyễn
Thời điểm này, khi học sinh phổ thông chuẩn bị hoàn thành học kỳ I, cũng là lúc khá nhiều trường đại học công bố dự kiến phương án tuyển sinh năm 2026.
Đáng chú ý, trong các phương án này, việc thu hẹp phạm vi sử dụng xét tuyển bằng học bạ trung học phổ thông đang trở thành điểm chung, thu hút sự quan tâm của đông đảo học sinh và phụ huynh.
Thực tế đó đặt ra câu hỏi: Vì sao một phương thức từng được nhiều trường và thí sinh lựa chọn lại đang dần bị thu hẹp vai trò trong tuyển sinh đại học?
Những yếu tố tác động tới xét tuyển học bạ
Từ mùa tuyển sinh năm 2025, xu hướng thu hẹp phạm vi áp dụng xét tuyển bằng học bạ trung học phổ thông đã bắt đầu rõ nét ở nhiều cơ sở giáo dục đại học. Chuẩn bị cho tuyển sinh năm 2026, thời điểm này, một số trường tiếp tục công bố dự kiến giảm phạm vi sử dụng phương thức này; một số khác cắt giảm mạnh chỉ tiêu hoặc chỉ sử dụng học bạ như điều kiện sơ tuyển, thay vì là phương thức xét tuyển độc lập như trước.
Theo lý giải của lãnh đạo nhiều trường đại học, sự điều chỉnh này xuất phát trước hết từ yêu cầu tuyển sinh đối với học sinh học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Với chương trình mới, học sinh được lựa chọn môn học theo định hướng cá nhân, dẫn tới học bạ có sự khác biệt khá lớn về tổ hợp môn và kết quả học tập giữa các thí sinh. Trong bối cảnh đó, việc sử dụng học bạ như một “thước đo chung” để xét tuyển đại học ngày càng bộc lộ hạn chế, đặc biệt khi cần so sánh, xếp hạng thí sinh trên diện rộng.
Những điều chỉnh trong chính sách tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng tác động trực tiếp đến vai trò của học bạ. Từ năm 2025, việc bỏ xét tuyển sớm và thực hiện quy đổi điểm trúng tuyển giữa các phương thức về thang điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông được xem là bước đi quan trọng nhằm tăng tính công bằng, minh bạch. Khi các phương thức xét tuyển phải quy về cùng một chuẩn, học bạ - vốn là hình thức đánh giá quá trình buộc phải được đặt trong mối tương quan chặt chẽ hơn với các kỳ thi đánh giá theo thời điểm.
Thí sinh đăng ký nguyện vọng xét tuyển đại học năm 2026 từ ngày 2-7 đến 17h ngày 14-7. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức cho thí sinh tập dượt đăng ký xét tuyển trên hệ thống từ ngày 17-6 đến ngày 21-6.
Thực tế cho thấy, xét tuyển học bạ từng là phương thức phổ biến, với tỷ lệ thí sinh nhập học cao, khoảng 30-50% ở nhiều trường. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, phương thức này cũng gây ra không ít tranh luận, xoay quanh tình trạng “làm đẹp” học bạ, sự chênh lệch trong đánh giá giữa các địa phương và nguy cơ hạ chuẩn đầu vào nếu sử dụng tràn lan.
Vai trò học bạ nhìn từ thực tế
Trong nhóm các trường đã công bố dự kiến thu hẹp phạm vi sử dụng xét tuyển bằng học bạ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 là một trường hợp tiêu biểu. Theo phương án tuyển sinh năm 2026, nhà trường dự kiến chỉ áp dụng xét tuyển học bạ với 17 ngành, thay vì triển khai ở tất cả các ngành như những năm trước.

Thí sinh cần tìm hiểu kỹ đề án tuyển sinh của từng trường mà mình có nguyện vọng dự tuyển. Ảnh: Lê Nguyễn
Theo phân tích từ phía nhà trường, khi nhiều cơ sở đào tạo quyết định thu hẹp hoặc bỏ phương thức xét tuyển học bạ, một trong những lý do thường được nhắc tới là sự chưa đồng đều trong chất lượng đánh giá học sinh giữa các vùng miền. Tuy nhiên, đây không phải là toàn bộ vấn đề.
Về bản chất, học bạ là hình thức đánh giá quá trình học tập của học sinh trong suốt ba năm trung học phổ thông. Trong khi đó, các kỳ thi, dù là kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông hay các kỳ thi riêng do các cơ sở đào tạo tổ chức, chỉ phản ánh năng lực của người học tại một thời điểm nhất định. Mỗi phương thức đánh giá đều có ưu điểm riêng, và vấn đề cốt lõi nằm ở việc lựa chọn, kết hợp và chuẩn hóa các phương thức này sao cho phù hợp.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Thụ, Trưởng phòng Đào tạo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, năm 2026, nhà trường vẫn tiếp tục sử dụng kết quả học bạ trong tuyển sinh, song phạm vi được thu hẹp đáng kể. Theo phương án đã công bố, trường áp dụng 4 phương thức tuyển sinh gồm: Xét tuyển thẳng theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo; sử dụng điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2026; xét tuyển bằng học bạ đối với một số ngành cốt lõi; sử dụng kết quả kỳ thi riêng do trường tổ chức.
Việc xét tuyển học bạ chỉ được duy trì ở những ngành có tính đặc thù hoặc được xác định là ngành cốt lõi, như vi mạch và bán dẫn, thiết kế vi mạch - bán dẫn, kỹ thuật hóa học, công nghệ sinh học, quản lý thể dục thể thao. Riêng với ngành quản lý thể dục thể thao, đối tượng tuyển sinh chủ yếu là các vận động viên đã qua độ tuổi thi đấu, có nhu cầu chuyển sang học quản lý hoặc huấn luyện, nên học bạ vẫn được coi là phương thức phù hợp.
Số liệu tuyển sinh của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cho thấy, những năm trước khi chưa áp dụng thang điểm chung, chỉ tiêu xét tuyển bằng học bạ dao động khoảng 5-10% và đạt hiệu quả tuyển sinh tốt. Tuy nhiên, trong năm 2025, tỷ lệ thí sinh trúng tuyển bằng học bạ của trường tăng lên 23% - theo xu hướng chung của cả nước. Khi phân tích hơn 700 thí sinh trúng tuyển bằng học bạ, trong đó có 600 thí sinh tốt nghiệp trung học phổ thông cùng năm, nhà trường ghi nhận điểm học bạ của các thí sinh này cao hơn điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông ở cùng tổ hợp môn.
Từ thực tế này, vấn đề đặt ra không phải là phủ nhận giá trị của học bạ, mà là yêu cầu phải có cơ chế quy đổi phù hợp, mang tính khoa học và phản ánh sát hơn năng lực thực chất của thí sinh.
Ở góc độ rộng hơn, việc nhiều trường đại học dần thu hẹp xét tuyển học bạ cũng đặt ra bài toán về cơ hội tiếp cận giáo dục đại học cho người học. Việc bỏ hoàn toàn học bạ có thể gây khó khăn nhất định cho thí sinh, nhất là với những học sinh ở địa bàn kinh tế - xã hội còn khó khăn…
Khi phương thức xét tuyển ngày càng đa dạng, các chuyên gia lưu ý, thí sinh cần chủ động tìm hiểu kỹ đề án tuyển sinh của từng cơ sở đào tạo, lựa chọn ngành học và phương thức xét tuyển phù hợp với năng lực, đồng thời sẵn sàng thích nghi với những thay đổi trong tuyển sinh đại học những năm tới.













