Một số vấn đề lý luận chung về nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện ở Thanh Hóa thực chất là tổng thể các biện pháp, cách thức nhằm nâng cao khả năng của cấp ủy cấp huyện trong việc thực hiện các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo nhằm đạt được kết quả cao trong thực tiễn.
1. Nhận thức sâu sắc lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”[1], xứng đáng là đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong mọi giai đoạn của cách mạng.
Chính vì vậy, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng như Hội nghị Trung ương 3 khóa VII năm 1992, về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Hội nghị Trung ương 6 lần 2 khóa VIII năm 1999, về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay,...
Chỉ tính riêng trong 10 năm gần đây, ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, qua các Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII, Đảng đều ban hành các nghị quyết, kết luận, quy định hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đại hội XIII của Đảng đánh dấu sự phát triển nhận thức về tư duy, lý luận của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng ta đã bổ sung nhiều quan điểm mới về xây dựng Đảng, trong đó có thuật ngữ “năng lực cầm quyền” vào mục tiêu tổng quát “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”. Đồng thời, trong phương hướng của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước”[2].
2. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy cấp huyện ở Thanh Hóa là khả năng, mức độ, kết quả của cấp ủy cấp huyện đạt được khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình hay nói cách khác năng lực lãnh đạo của cấp ủy cấp huyện là khả năng đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đúng đắn, sát hợp với từng địa phương, đơn vị trong từng thời kỳ, đồng thời là khả năng tổ chức thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đó địa phương, đơn vị.
Bám sát phương thức lãnh đạo của Đảng, theo chúng tôi năng lực lãnh đạo, cầm quyền của cấp ủy cấp huyện thể hiện ở các nội dung:
Thứ nhất, k hả năng bao quát, định hướng: thực chất là khả năng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt và thảo luận xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Ở khâu này, đòi hỏi cấp ủy cấp huyện nhất là người đứng đầu phải nghiên cứu nắm vững các quan điểm mới, các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá...của Nghị quyết; đồng thời trên cơ sở học tập, bám sát định hướng đề cương nghiên cứu, kế thừa những cách thức quán triệt của cấp ủy cấp trên, lựa chọn các hình thức phù hợp, sáng tạo (học tập, tọa đàm, hỏi đáp, thi tìm hiểu...).
Phương châm quán triệt: Rõ hơn về điểm mới, sát với đối tượng, phù hợp với thực tiễn. Đồng thời phát huy dân chủ, tổ chức thảo luận, rà soát, bổ sung các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp...thống nhất ban hành chương hành động thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng các cấp của Đảng bộ.
Yêu cầu chung về chương trình hành động phải đảm bảo: đúng định hướng nhưng phù hợp với thực tiễn; đảm bảo tính toàn diện song phải có trọng tâm, trọng điểm; vừa tập trung giải quyết vấn đề trước mắt song phải chú trọng lợi ích, hiệu quả lâu dài. Theo đó, chương trình hành động có tính khả thi phải rõ: Rõ về mục tiêu, chỉ tiêu; rõ về nội dung, cách thức; rõ về điều kiện, nguồn lực; rõ về trách nhiệm tổ chức thực hiện. Qua đó, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, khơi dậy khát vọng và ý chí vươn lên của cán bộ, đảng viên, người lao động tạo tiền đề quan trọng để toàn Đảng bộ quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt thực hiện thắng lợi Nghị quyết.
Thứ hai, khả năng kết nối, phát huy nguồn lực: thực chất đây là khả năng lãnh đạo, chỉ đạo hiện thực hóa và cụ thể hóa kế hoạch, chương trình hành động thành phong trào thi đua yêu nước ở địa phương, đơn vị. Theo đó, cấp ủy cấp huyện lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện và các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc kịp thời cụ thể hóa chương trình, kế hoạch hành động... thành các cơ chế kích cầu, các quy chế, quy định, các chương trình, đề án, dự án, kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện; lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các mô hình, điển hình phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng địa phương, đơn vị... vừa phát huy, đồng hành và chăm lo đến lợi ích của Nhân dân. Chức năng cơ bản của khâu này là sự “kết nối” giữa các lực lượng. Bởi vậy, để tổ chức triển khai có hiệu quả, phát huy được sức mạnh, sự chủ động và sáng tạo của cả hệ thống chính trị đòi hỏi công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp huyện phải rõ về cơ chế phối hợp theo phương châm: Rõ việc; rõ chủ thể (chủ trì, phối hợp); rõ về điều kiện, thời gian; rõ về phương pháp, cách thức, quy trình; rõ về mô hình, sản phẩm.
Thứ ba, khả năng điều chỉnh, thích ứng: khả năng lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện kịp thời, điều chỉnh chỉ tiêu, nhiệm vụ cho phù hợp với thực tiễn. Tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng là quá trình lâu dài liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều lĩnh vực, để thực hiện thành công đòi hỏi cấp ủy cấp huyện, nhất là người đứng đầu phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Qua kiểm tra, giám sát để phát hiện những yếu tố không phù hợp, thậm chí là sai lệch, từ đó kịp thời điều chỉnh đúng định hướng, phù hợp thực tiễn, đem lại kết quả cao. Để làm tốt khâu này đòi hỏi các cấp ủy cấp huyện phải có năng lực vừa bao quát mọi người, mọi việc vừa sâu sát, cụ thể đến từng người, từng việc với phương châm: phải đến tận chỗ, rõ tận việc, thường xuyên kiểm tra, kịp thời điều chỉnh.
Thứ năm, khả năng thúc đẩy đổi mới, sáng tạo: khả năng lãnh đạo, chỉ đạo công tác sơ kết, tổng kết thực hiện Nghị quyết. Nội dung sơ kết, tổng kết là đánh giá những kết quả đạt được trong lãnh đạo, chỉ đạo; những hạn chế tồn tại, nguyên nhân và kinh nghiệm. Yêu cầu trong đánh giá sơ kết, tổng kết phải khách quan, toàn diện; lịch sử, cụ thể và thực tiễn tránh biểu hiện chung chung, hình thức nặng về thành tích, coi nhẹ những hạn chế, tồn tại. Mục tiêu chính của khâu này là thông qua đánh giá để khẳng định được thành tích, kết quả, những mô hình hay, cách làm hiệu quả; rút ra được những kinh nghiệm quý của thành công và thất bại để có giải pháp vừa khắc phục những hạn chế vừa phát huy được những thành tích, coi trọng tổng kết thực tiễn để hoàn thiện, phát triển lý luận thúc đẩy sự phát triển toàn diện ở địa phương. Như vậy, năng lực lãnh đạo của các cấp ủy cấp huyện là tổng hợp và cộng hưởng các khả năng của cấp ủy cấp huyện trong việc định hướng, dẫn dắt, huy động, phối hợp tối đa các nguồn lực để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
Sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; là sự kiên định, vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất cao về ý chí, hành động; kỷ cương, kỷ luật về đội ngũ; thực sự trong sạch về đạo đức, lối sống; gắn bó máu thịt với Nhân dân, tạo nên sức mạnh, sức bền nội tại của tổ chức cơ sở đảng, là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, là khả năng đấu tranh kiên định và hiệu quả với mọi thế lực thù địch trên các lĩnh vực, bảo vệ trong sạch nội bộ, là tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, là sự gắn kết Đảng với quần chúng và uy tín của Đảng trong quần chúng. Sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện có thể khái quát ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, s ức kiên định: thể hiện ở sự kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, s ức nhận biết: là khả năng nhận biết âm mưu, thủ đoạn, các quan điểm sai trái, thù địch; khả năng nhận biết những hạn chế, khuyết điểm thậm chí là sai lầm của cấp ủy, tổ chức đảng; khả năng nhận biết được những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thứ ba, s ức khắc phục: là khả năng khắc phục những hạn chế, tiêu cực, sai trái trong Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân; ở tinh thần đấu tranh ủng hộ cái đúng, cái mới tiến bộ, phê phán, loại bỏ cái cũ, lạc hậu; khả năng nhạy bén trong việc nắm bắt tình hình, tính kịp thời trong phát hiện và kiên quyết đấu tranh đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, mọi tư tưởng, quan điểm lệch lạc, phản động, mọi hành động sai trái để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, s ức tự phê bình và phê bình: là khả năng nhận diện những hạn chế của bản thân và đồng chí, tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao; thật thà, thẳng thắn, khách quan, trung thực trong phê bình với mục đích nhằm giúp nhau tiến bộ và dựa trên tình đồng chí và thương yêu lẫn nhau. Đây cũng là cơ sở để ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, góp phần làm trong sạch cấp ủy, tổ chức đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ năm, s ức tự chỉnh đốn, tự đổi mới: là khả năng nghiên cứu lý luận, phát triển trí tuệ, tư duy, tầm nhìn của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên; khả năng tổng kết thực tiễn để khái quát hóa thành chủ trương, nghị quyết;... từ đó định hướng cho hoạt động thực tiễn đúng quy luật, phù hợp với thực tế của địa phương, đơn vị; khả năng đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy cấp huyện đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, nâng cao khả năng thích nghi với quá trình thay đổi của bối cảnh mới, tình hình mới.
Năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện là hai mặt của một vấn đề, là hai thành tố gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên một chỉnh thể có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Năng lực lãnh đạo, cầm quyền tốt là điều kiện để sức chiến đấu được phát huy, sức chiến đấu cao tạo cơ sở vững chắc để năng lực lãnh đạo, cầm quyền được tăng cường.
3. Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện ở Thanh Hóa thực chất là tổng thể các biện pháp, cách thức nhằm nâng cao khả năng của cấp ủy cấp huyện trong việc thực hiện các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo nhằm đạt được kết quả cao trong thực tiễn. Nâng cao trình độ giác ngộ, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên trước mọi biến động của tình hình chính trị - xã hội; nâng cao khả năng khắc phục những biểu hiện tiêu cực, sai trái, những hạn chế, khuyết điểm của bản thân cấp ủy, tổ chức đảng và của địa phương, đơn vị; khả năng nhạy bén về chính trị và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, hành động thù địch, ngăn chặn tác động tiêu cực từ bên ngoài của cán bộ, đảng viên...
Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp ủy cấp huyện ở Thanh Hóa, bên cạnh việc bám sát phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đề ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, các cấp ủy cấp huyện cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, toàn diện 9 nhóm nhiệm vụ giải pháp được đề ra trong Chương trình số 13- CTr/TU ngày 16/4/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 về “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ nét trong sắp xếp tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ”[3], góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Thanh Hóa “đến năm 2025 trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước - một cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc; đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại”[4].
Lương Trọng Thành
Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa
------------------
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.403.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.229.
[3]. Chương trình số 13-CTr/TU ngày 16/4/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ nét trong sắp xếp tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ”.
[4]. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa: Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Thanh Hóa - 2020, tr.79.