Mưa lũ cực đoan phơi bày lỗ hổng vận hành hồ thủy lợi, thủy điện
Nếu các hồ thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ vùng hạ du sẽ được nâng lên đáng kể, đặc biệt trong những trận mưa lũ cực đoan.
Trong bối cảnh mưa lũ cực đoan liên tiếp xảy ra ở miền Trung, việc vận hành hồ chứa – đặc biệt là các hồ thủy điện – tiếp tục thu hút sự chú ý của dư luận. Tại Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” cuối tuần qua, nhiều vấn đề nóng đã được thẳng thắn nêu ra, cho thấy hệ thống hồ chứa đang đối mặt với những thách thức chưa từng có.
Nhiều hồ chứa thiếu dữ liệu, cảnh báo thủ công
Theo Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hồ chứa không chỉ phục vụ thủy lợi mà còn giữ vai trò như “lá chắn” bảo vệ dân cư, bảo đảm an ninh nguồn nước và hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, lo ngại lớn hiện nay là nhiều công trình đã xây dựng từ lâu, trong khi hệ thống thông tin, dữ liệu và dự báo vẫn thiếu đồng bộ, khiến việc vận hành còn bị động.
Ông Phan Tiến An, Trưởng phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi), cho biết mưa lũ cực đoan thời gian gần đây đang tạo áp lực rất lớn lên công tác quản lý, vận hành hồ chứa. Dù nhiều quy định pháp luật đã được ban hành, thực tế vẫn tồn tại không ít “điểm yếu” kéo dài.
Hiện mới 30% hồ chứa có phương án ứng phó tình huống khẩn cấp; 51% có phương án bảo vệ; chỉ 9% được kiểm định an toàn đập; 31% có quy trình vận hành; 19% lắp thiết bị quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng; và chỉ 11% cắm mốc phạm vi bảo vệ.
Về cơ sở dữ liệu đập, hồ chứa thủy lợi, phần lớn hồ chứa đã được đưa vào hệ thống quản lý, nhưng chỉ khoảng 900 hồ có bộ thông số kỹ thuật tương đối đầy đủ. Các hồ còn lại thiếu nhiều dữ liệu, chủ yếu chỉ có tên, dung tích và vị trí; trong khi 592 đập dâng vẫn chưa được cập nhật thông số kỹ thuật.

Đến 6h sáng 24/11, mưa lũ ở Trung Bộ và Tây Nguyên vẫn diễn biến phức tạp, nhiều khu vực ngập sâu, giao thông chia cắt, thiệt hại tiếp tục tăng. Ảnh: Xuân Ngọc
Công tác cảnh báo lũ cũng còn hạn chế khi nhiều hồ vẫn thông báo thủ công qua điện thoại hoặc công văn, dễ gây chậm trễ trong bối cảnh mưa lũ diễn biến nhanh và phức tạp.
Theo tổng hợp trước mùa mưa lũ 2025, mức độ đáp ứng dữ liệu phục vụ ứng dụng công nghệ còn rất thấp: chỉ 19% hồ có thiết bị quan trắc chuyên dùng; 9% hồ được kiểm định an toàn; 30% có phương án ứng phó khẩn cấp. Toàn quốc mới có 411 hồ được xây dựng bản đồ ngập lụt hạ du – loại dữ liệu đặc biệt quan trọng cho hệ thống cảnh báo sớm.
Quy trình vận hành lỗi thời, bị động
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi, thừa nhận các đợt mưa lũ cực đoan vừa qua đã bộc lộ hàng loạt vấn đề trong vận hành hồ chứa, cho thấy hệ thống đang đứng trước những thách thức hoàn toàn mới.
Nhiều quy trình vận hành đơn hồ và liên hồ hiện được xây dựng dựa trên chuỗi số liệu lịch sử cũ, không phản ánh tình trạng 2–3 năm gần đây. Điều này khiến khi xảy ra mưa lớn, lượng nước đổ về thực tế có thể gấp 4–6 lần trung bình tháng, thậm chí vượt xa nhiều kỷ lục trong quá khứ.
Không ít hồ chứa chủ động hạ mực nước đón lũ do dự báo chưa chắc chắn, khiến hiệu quả tích nước và cắt lũ bị giảm. Các hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết càng dễ rơi vào tình trạng bị động khi mưa lớn dồn dập.
Ông Nguyễn Tùng Phong cho rằng ngành thủy lợi cần chuyển mạnh sang cách tiếp cận quản lý và quản trị rủi ro theo lưu vực và liên lưu vực sông, thay vì vận hành rời rạc từng hồ. Chức năng của hồ chứa phải được xác định rõ theo hướng đa mục tiêu: cắt lũ, đảm bảo an toàn công trình, bảo vệ hạ du, đồng thời cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất.
Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cũng nhấn mạnh vai trò của các hồ thủy điện. Tổng dung tích hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ đạt khoảng 15,5 tỷ m³, trong khi nhiều hồ thủy điện có quy mô lớn hơn nhiều. Nếu các hồ thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được nâng lên đáng kể, đặc biệt trong những trận mưa lớn lịch sử.
Ông Nguyễn Tùng Phong nhấn mạnh cần tăng cường phối hợp giữa thủy lợi và thủy điện, kết hợp ứng dụng công nghệ mới để đảm bảo an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.
Một trong những giải pháp quan trọng được nêu tại diễn đàn là nâng cao năng lực dự báo – cảnh báo, đồng thời kết nối và khai thác hiệu quả các hệ thống dữ liệu như Vrain, dữ liệu doanh nghiệp dự báo, mô hình mưa – dòng chảy và mô hình thủy lực. Mục tiêu là chuyển từ “dự báo” sang “thông báo đủ tin cậy”, giúp đơn vị vận hành chủ động hạ mực nước đón lũ mà vẫn đảm bảo an toàn.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường dự kiến trình Quốc hội sửa đổi Luật Thủy lợi giai đoạn 2027–2028, đồng thời xem xét điều chỉnh các nghị định liên quan sau khi tổng kết diễn biến thời tiết cực đoan trong thời gian tới.











