Mua xe máy của các đối tượng trộm cắp để bán bị xử lý thế nào?

Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, như sau: Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng; Thu lợi bất chính từ 20 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng; Tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 10 năm: Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; Thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1 tỷ đồng trở lên; Thu lợi bất chính 300 triệu đồng trở lên.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Theo đó, hành vi mua bán xe máy cũ biết rõ là tài sản do trộm cắp mà có và không hứa hẹn trước thì có dấu hiệu của tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Nếu chứng minh được người mua hứa hẹn trước với đối tượng trộm cắp tài sản thì hành vi mua xe máy có được từ hành vi trộm cắp tài sản trước đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “trộm cắp tài sản với vai trò đồng phạm”.

Trong trường hợp người dân mua xe nhưng không biết nguồn gốc xe, sau đó mới phát hiện nguồn gốc xe do trộm cắp mà có, thì không cấu thành tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; trong trường hợp này, xe máy sẽ bị thu hồi để trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp; người mua có quyền khởi kiện dân sự đòi lại tiền từ người bán xe hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp có tài liệu, chứng cứ cho thấy người mua biết rõ xe là tài sản do trộm cắp mà có nhưng vẫn cố tình mua thì tùy tính chất, mức độ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Thợ sửa xe hoặc cửa hàng sửa chữa biết rõ xe máy là do trộm cắp mà có nhưng vẫn mua, thay đổi số khung, số máy của xe trộm cắp và làm giả hoặc thuê làm giả giấy tờ xe nhằm trục lợi thì tùy tính chất, mức độ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự các tội: Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 323 Bộ luật Hình sự); làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341 Bộ luật Hình sự); lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 Bộ luật Hình sự)…

Anh Quang

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/mua-xe-may-cua-cac-doi-tuong-trom-cap-de-ban-bi-xu-ly-the-nao-10302143.html