Mỹ: Vấn nạn sinh viên tự tử trong các trường đại học tăng cao

Vấn đề tự tử ở sinh viên đại học là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất hiện đang xảy ra trong cộng đồng đại học khiến nhiều người bối rối về nguồn gốc và nguyên nhân của nó.

Ở Mỹ, tỷ lệ tự tử ở độ tuổi từ 15 đến 24 đã tăng khiêm tốn nhưng đều đặn kể từ năm 2007: từ 9,6 ca tử vong trên 100.000 người lên 11,1 các năm gần đây (theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh cung cấp). Nhưng một cuộc khảo sát của các trung tâm tư vấn đại học đã phát hiện ra rằng, hơn một nửa số khách hàng của họ gặp vấn đề nghiêm trọng về tâm lý, tăng 13% chỉ sau hai năm. Theo thứ tự đó, lo lắng và trầm cảm hiện là những chẩn đoán sức khỏe tâm thần phổ biến nhất ở sinh viên đại học, theo Trung tâm Sức khỏe Tâm thần Đại học tại bang Pennsylvania ( Penn).

Theo thống kê của Đại học Emory, bang Georgia, hàng năm, Mỹ có khoảng 1.000 sinh viên tự tử vì áp lực học hành. Tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), tỷ lệ tự tử trong thập kỷ qua là 10,2/ 100.000 sinh viên. Có năm học, sáu sinh viên Đại học Pennsylvania tự chấm dứt cuộc đời. Có sáu vụ tự sát xảy ra tại Đại học Cornell trong môt năm., Đại học Tulane từng mất bốn sinh viên một năm, Đại học bang Appalachian mất ít nhất ba người. Tại đại học New York, đã có năm sinh viên tìm đến cái chết. Báo chí Mỹ hồi mới đây cho biết.

Một cuộc triển lãm du lịch của Active Minds, một nhóm vận động, bao gồm 1.100 chiếc ba lô tượng trưng cho số lượng gần đúng sinh viên đại học tự tử mỗi năm. Ảnh NYT.

Một cuộc triển lãm du lịch của Active Minds, một nhóm vận động, bao gồm 1.100 chiếc ba lô tượng trưng cho số lượng gần đúng sinh viên đại học tự tử mỗi năm. Ảnh NYT.

Hội chứng Vịt

Mặc dù tên gọi này là duy nhất của Đại học Penn nhưng cách hành xử thì không. Năm 2003, Duke đã khiến học viện sửng sốt với một báo cáo mô tả các sinh viên nữ cảm thấy áp lực như thế nào khi phải đạt tiêu chí: thông minh, thành đạt, khỏe mạnh, xinh đẹp và nổi tiếng, tất cả đều không cần nỗ lực nhiều. Ở Stanford, đây được gọi là Hội chứng Vịt. Một con vịt dường như lướt đi một cách bình tĩnh trên mặt nước, trong khi bên dưới mặt nước chân nó vận động một cách điên cuồng và không ngừng nghỉ.

Kahaari Kenyatta, sinh viên năm cuối Đại học Penn từng làm cố vấn định hướng cho biết: “Không ai muốn trở thành người đang gặp khó khăn trong khi những người khác đang làm rất tốt. “Bất chấp điều gì đang xảy ra - nếu bạn căng thẳng, hơi chán nản, nếu bạn bị choáng ngợp - bạn vẫn muốn thể hiện mặt tích cực này”. Trích dẫn “nhận thức rằng một người phải hoàn hảo trong mọi nỗ lực học tập, ngoại khóa và xã hội”, khiến học sinh cảm thấy áp lực to lớn “có thể biểu hiện như mất tinh thần, xuất hiện tình trạng xa lánh hoặc các tình trạng như lo lắng hoặc trầm cảm”.

William Alexander, Giám đốc dịch vụ tư vấn và tâm lý của Đại học Penn, đã chứng kiến sự thay đổi trong cách một số thanh niên đương đầu với thử thách. Ông nói: “Một thất bại nhỏ thường có nghĩa là thất vọng hoặc có cảm giác cần phải cố gắng hơn nữa vào lần sau. Hiện nay? “Đối với một số học sinh, một sai lầm lại có ý nghĩa rất lớn”. Meeta Kumar, người đã tư vấn tại Đại học Penn suốt 16 năm, cũng nhận thấy sự thay đổi tương tự. Cô cho biết việc đạt điểm B có thể khiến một số học sinh có ý nghĩ sa sút. “Điều mà bạn và tôi gọi là sự thất vọng trong cuộc sống, nhưng đối với họ đó là những thất bại lớn”.

Kathryn DeWitt, một sinh viên Đại học Pennsylvania đã chiến đấu với chứng trầm cảm, chia sẻ kinh nghiệm của mình tại cuộc họp của Active Minds.Credit... Ảnh NYT.

Kathryn DeWitt, một sinh viên Đại học Pennsylvania đã chiến đấu với chứng trầm cảm, chia sẻ kinh nghiệm của mình tại cuộc họp của Active Minds.Credit... Ảnh NYT.

Là con lớn của một kỹ sư xây dựng và giáo viên mầm non ở San Mateo, California, cô DeWitt, hiện 20 tuổi, đã hiểu từ khi học mẫu giáo rằng, cô phải theo học một trường đại học ưu tú. Mặc dù cô ấy nói rằng, cha mẹ cô không quá cầu toàn nhưng cô gái vẫn thích thú với những lời khen ngợi của họ vì đã thể hiện tốt vai trò của mình. Cô chia sẻ: “Nghe bố mẹ nói về tôi một cách tích cực hoặc nghe các bậc cha mẹ khác nói về việc con họ học tập tốt hoặc ngoại khóa tốt, đó là lúc tôi có một số kỳ vọng cho bản thân mình”. “Nó giống như sự tự thỏa mãn: Tôi cảm thấy thỏa mãn và hạnh phúc khi người khác hài lòng với những gì tôi đang làm hoặc những mong đợi mà họ đạt được.” Đại học Penn có cảm giác như một chặng đường dài nhưng lại là lựa chọn hàng đầu của cô. Khi được nhận vào danh sách chờ, cô đã tự hứa với mình là không phung phí cơ hội quý giá. Trong mùa hè năm đó, cô đã nghiên cứu danh mục khóa học và quyết định rằng, việc đăng ký học chuyên ngành sớm sẽ giúp kế hoạch của cô hiệu quả hơn. Cô chọn môn toán, hình dung về nghề dạy học. Cô nói: “Tôi là người sống theo lịch trình. “Tôi có kế hoạch trong hai, ba năm tới, có thể là năm năm”.

Vì thế cô đã lập một kế hoạch để khiến cuộc đời mình diễn ra theo cách mà cô nghĩ nó phải như vậy. Cô nói: “Tôi có ý tưởng rằng mình sẽ tìm được người bạn trai theo Cơ đốc tốt bụng này ở trường đại học, ổn định cuộc sống và sống cuộc sống mà cha mẹ cô đã định hướng. Nhưng có vấn đề về giới tính của cô gái. Nhiều lần ở trường trung học, cô thấy mình bị thu hút bởi những cô gái khác, nhưng tin rằng bố mẹ và nhà thờ không hoàn toàn chấp nhận chuyện đồng tính luyến ái nên cô đã gạt bỏ những cảm xúc đó sang một bên. Quyết tâm của cô càng được củng cố khi cha cô mời cô ngồi xuống để đọc một bài phát biểu chân thành về việc ông tự hào như thế nào khi cô được vào Đại học Penn và về định hướng mà cuộc đời cô đang đi. “Những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt bố.’ ”

Đại học Harvard chiếm tỷ lệ cao nhất

Thực tế, những năm gần đây, dưới áp lực học tập cùng sự cạnh tranh khốc liệt tại những trường hàng đầu thế giới như Đại học Harvard, nhiều sinh viên tự tử vì căng thẳng và không chịu nổi thất bại. Christine, một sinh viên năm cuối tại Đại học Harvard, cho biết: "Tôi thà tự tử còn hơn phải nhận thất bại. Tôi hy vọng Harvard có thể cải thiện tình hình và dự định làm lại cuộc đời ở đây nhưng thật không dễ", cô nói. Nữ sinh này từng hai lần tự tử không thành trong năm học thứ hai. Từ thời trung học, Christine đã mắc chứng trầm cảm vì áp lực học tập quá lớn. Cô cho rằng, lên đại học, mọi chuyện sẽ ổn hơn.

Tuy nhiên, áp lực của sự hoàn hảo khiến bệnh tình của nữ sinh thêm tồi tệ. Cùng với các tin xấu từ gia đình, cô chọn cách giải quyết tiêu cực. Cô không phải trường hợp duy nhất tại các trường đại học hàng đầu thế giới muốn dùng cái chết để chấm dứt tình trạng bế tắc. Cách đây không lâu, Jason D. Altom, sinh viên khoa Hóa học hệ sau đại học tại Harvard, tự tử để chấm dứt những ngày tháng học tập căng thẳng. Nạn nhân để lại 3 bức thư tuyệt mệnh, chỉ trích giáo sư cố vấn từng giành giải Nobel đã đẩy anh đến bước đường cùng.

Cái chết của Altom dấy lên câu hỏi về những gì đang diễn ra tại những ngôi trường hàng đầu thế giới. Vụ tự tử là bằng chứng của áp lực học tập nặng nề cùng sự cạnh tranh khốc liệt. Chúng tồn tại ở nhiều đại học, đặc biệt với những nơi nổi tiếng.

Tại Bang Appalachian, những chia sẻ mất mát và động viên hòa quyện vào nhau tạo nên một “chuỗi hy vọng”. Ảnh NYT.

Tại Bang Appalachian, những chia sẻ mất mát và động viên hòa quyện vào nhau tạo nên một “chuỗi hy vọng”. Ảnh NYT.

Trên thực tế, Altom không phải người duy nhất tìm đến cái chết vì áp lực của sự hoàn hảo ở Harvard. Từ năm 1980, trường có 8 vụ tự sát. Paul J. Barreira, Giám đốc Trung tâm Y tế Harvard, cho biết, năm 2021, tỷ lệ sinh viên trường tự tử là 5/ 100.000 người, thấp hơn mức 6,18/ 100.000 người của sinh viên trên cả nước.

Thời trung học, Maggie Delano chưa bao giờ đạt điểm dưới 90 trong những lần thi cuối kỳ. Tuy nhiên, ngay trong kỳ đầu tiên tại MIT, cô chỉ đạt điểm 27 môn Vật lý và nhận kết quả loại D. "Tôi suy sụp hoàn toàn vì chưa từng thất bại", nữ sinh nói.

Đối với nhiều người, Harvard và MIT ở Mỹ là nơi khởi đầu lý tưởng cho một tương lai tốt đẹp. Nhưng với một số người, đây là cái nôi ngột ngạt, cướp đoạt tuổi trẻ, thậm chí tính mạng của họ.

Áp lực từ học hành

Harvard có ban cố vấn gồm những giáo sư đầu ngành chịu trách nhiệm giám sát và đánh giá quá trình hoàn thành luận văn nhằm đảm bảo sinh viên không quá phụ thuộc vào giáo sư hướng dẫn. Altom viết: "Nếu tôi biết trường có một ban như vậy, mọi chuyện đã không đi đến bước này".

Madison Holleran, một sinh viên Đại học Penn nổi tiếng và tài năng, đã tự sát. Ảnh NYT.

Madison Holleran, một sinh viên Đại học Penn nổi tiếng và tài năng, đã tự sát. Ảnh NYT.

Sau cái chết của Jason D. Altom, nhiều người cố gắng tìm hiểu nguyên nhân đằng sau quyết định tiêu cực này. Bức thư của Altom khiến một số người chỉ trích và yêu cầu Giáo sư Elias J. Corey xem xét lại cách làm việc. Trên thực tế, 3 trong số 4 sinh viên khoa Hóa học tự tử, bao gồm Altom, là nghiên cứu sinh do ông Corey hướng dẫn. Giáo sư Corey là chuyên gia về hóa học phân tử, từng giành giải Nobel năm 1990. Với kiến thức uyên bác, ông là lựa chọn hàng đầu cho những sinh viên muốn tốt nghiệp với kết quả hạng ưu. Tuy nhiên, vị giáo sư cũng yêu cầu rất cao.

Những sinh viên từng được ông hướng dẫn khẳng định, nhóm nghiên cứu của Corey luôn mạnh nhất. Họ chọn ông vì muốn thử thách bản thân và tạo bước tiến lớn nhất.

Trong trường hợp của Altom, nhiều người cho rằng, lỗi nằm ở chính bản thân anh ta. Altom chọn đề tài khó nhất trong 3 đề tài giáo sư gợi ý, đồng thời không chọn người cùng làm như Corey đề nghị.

Nam sinh tìm đến cái chết khi việc nghiên cứu không được như mong muốn, bản thân không thể hoàn hảo như kỳ vọng đồng thời cảm thấy giáo sư không đánh giá cao mình.

Trong môi trường học tập quy tụ những sinh viên ưu tú, con người thường yêu cầu nghiêm khắc hơn với bản thân. Một khi thất bại còn những người khác tiến dần tới thành công, họ càng dễ suy sụp, bi quan. Những cái chết trên giảng đường là vấn đề nan giải đối với ban lãnh đạo trường đại học. Hầu hết các trường đều có trung tâm tư vấn sức khỏe tâm thần nhưng vì nhiều nguyên nhân, chúng không thể giải quyết vấn đề.

Đại học không chỉ là nơi trau dồi kiến thức mà còn là nơi rèn luyện tố chất tâm lý. Sinh viên phải học cách chịu đựng áp lực, tự thoát khỏi căng thẳng và sẵn sàng chấp nhận thất bại trước mắt. Các vụ tự tử đôi khi cũng xuất phát từ áp lực do trường tạo ra. MIT ước tính, mỗi sinh viên học 12 tiếng mỗi tuần cho khóa học gồm 12 tín chỉ. Trên thực tế, khóa học đòi hỏi nhiều thời gian hơn. Phần lớn sinh viên phải học khoảng 70 tiếng/tuần. Theo bảng xếp hạng của Niche, MIT đứng đầu Mỹ về mức độ vất vả của sinh viên. Đây cũng là tình hình chung tại các trường ưu tú.

Long Nguyễn

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-interpol/my-van-nan-sinh-vien-tu-tu-trong-cac-truong-dai-hoc-tang-cao-i719282/