Nam Định trong lịch sử và các lần chia tách, sáp nhập
Lịch sử hình thành, phát triển và các lần chia tách, sáp nhập luôn đi cùng chiều dài lịch sử của các địa phương, ghi dấu những bước chuyển mình giữa các thời kỳ. Điều này cũng luôn đúng ở tỉnh Nam Định và nhiều nhiều địa phương khác.

Vào đầu thế kỷ XIX Nam Định là một phần của trấn Sơn Nam Hạ thuộc Bắc Thành. Trấn Sơn Nam Hạ bao gồm 5 phủ, về cơ bản tương đương với hai tỉnh Thái Bình và Nam Định ngày nay. Phần đất tỉnh Nam Định tương ứng với hai phủ Thiên Trường và Nghĩa Hưng. Phủ Thiên Trường gồm 4 huyện là Giao Thủy, Nam Chân, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên với 34 tổng, 313 xã, thôn. Phủ Nghĩa Hưng gồm 4 huyện là Thiên Bản, Đại An, Vọng Doanh (năm 1822 đổi là Phong Doanh) và Ý Yên với 34 tổng, 265 xã, thôn. Tổng cộng cả hai phủ gồm 8 huyện, 68 tổng, 578 xã thôn.
Đến năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định. Tên Nam Định chính thức xuất hiện từ đây. Về mặt địa giới, trấn Nam Định so với trấn Sơn Nam Hạ cơ bản không có điều chỉnh gì.
Năm 1831 Minh Mệnh tiến hành cải cách hành chính, chia đặt các tỉnh. Nam Định là 1 trong số 31 tỉnh của cả nước lúc bấy giờ. Về mặt địa giới, so với trấn Nam Định - Sơn Nam Hạ, tỉnh Nam Định có sự thu hẹp. Ba huyện Hưng Nhân, Duyên Hà, Thần Khê thuộc phủ Tiên Hưng trước kia được sáp nhập vào tỉnh Hưng Yên. Phần đất hai phủ Thiên Trường và Nghĩa Hưng - tức tỉnh Nam Định ngày nay cơ bản không có gì thay đổi; và giữ như vậy cho đến khi thực dân Pháp chiếm Nam Định.
Sau cải cách hành chính (1831), tổ chức bộ máy cai trị cấp tỉnh được sắp xếp lại. Minh Mệnh đặt ra các liên tỉnh do quan Tổng đốc đứng đầu. Nam Định và Hưng Yên là một liên tỉnh gọi là Định - Yên. Quan Tổng đốc về nguyên tắc là người trông coi hai tỉnh, nhưng chỉ trực tiếp cai trị một tỉnh, tỉnh còn lại do quan Tuần phủ trực tiếp cai quản. Tổng đốc Định - Yên lĩnh công việc tuần phủ Nam Định. Đồng thời ty Tả thừa được đổi là ty Niết hay Án sát sứ do quan Án sát đứng đầu và ty Hữu thừa được đổi là ty Phiên hay Bố chính sứ do quan Bố chính đứng đầu. Quan Án sát trông coi các việc kiện tụng, hình án, thanh trừng quan lại tha hóa... Quan Bố chính trông coi việc thuế khóa, tài chính, truyền đạt mệnh lệnh của triều đình... Ngoài ra còn có quan Lãnh binh phụ trách về quân sự và quan Đốc học phụ trách về giáo dục và khoa cử.
Minh Mệnh cũng chia các tỉnh ra ba loại lớn, vừa và nhỏ, tương ứng với các loại là số viên chức nhiều hay ít. Nam Định là 1 trong 11 tỉnh lớn, vì thế mà số nhân viên (hai ty Án sát và Bố chính) cũng thuộc loại đông nhất. Ty Bố chính gồm 1 Thông phán, 1 Kinh lịch, 69 Thư lại (3 chánh bát phẩm, 6 chánh cửu phẩm, 60 vị nhập lưu). Ty Án sát gồm 1 Thông phán, 1 Kinh lịch, 44 Thư lại (2 chánh bát phẩm, 4 chánh cửu phẩm, 40 vị nhập lưu). Tổng cộng số nhân viên hai ty là 117 người (năm 1832 tăng lên 127 người, năm 1838 giảm xuống còn 75 người, giữa thế kỷ XIX tăng lên 80 người, năm 1868 tăng lên 154 người). Có thể nói đó là một bộ máy cai trị tương đối gọn nhẹ.
Do vị trí quan trọng của vùng Sơn Nam Hạ - Nam Định, nhà Nguyễn đã bố trí một lực lượng quân đội lớn trên địa bàn. Quân đội đặt dưới sự chỉ huy của quan Lãnh binh (trường hợp tỉnh lớn, thuộc khu vực ven biển như Nam Định có thêm 1 viên phó Lãnh binh và 1 viên Thủy sư Lãnh binh). Lực lượng quân đội đồn trú bao gồm 10 cơ, 3 thủy vệ, 6 đội định uy, 2 đội pháo thủ, 1 vệ Nam Định, 1 cơ Nam Định, 2 đội Định nghĩa, 1 đội Định tượng, 1 đội Tuần thành. Chỉ tính riêng biên chế 10 cơ đã là 5.000 người (quy định năm 1802), 3 thủy vệ là 1.512 người (quy định năm 1831)... Cộng toàn bộ số lính của tất cả các đơn vị vào thời điểm cao nhất lên tới 8.309 người bao gồm cả lính tuyển và lính mộ. Theo quy định của Nhà nước thì cứ 7 đinh tuyển 1 lính.
Mặc dù trấn Sơn Nam Hạ rồi trấn - tỉnh Nam Định thời Nguyễn có địa giới rộng hơn tỉnh Nam Định ngày nay (bao gồm cả tỉnh Thái Bình) nhưng trung tâm hành chính của trấn - tỉnh luôn luôn được đặt trên đất Nam Định, cụ thể là huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường. Thành trấn Sơn Nam Hạ được xây dựng từ năm Gia Long thứ 3 (1805), tại địa phận 2 xã Tức Mặc và Năng Lư thuộc tổng Mỹ Trọng, huyện Mỹ Lộc. Ban đầu thành đắp bằng đất, đến năm Minh Mệnh 14 (1833) xây lại bằng gạch.
Đối với các cấp phủ - huyện cũng có một số biến đổi về mặt hành chính. Huyện Nam Chân sau khi được tách thành hai huyện Nam Chân và Chân Ninh, số tổng và số xã thôn trong tổng của từng huyện có sự co giãn ít nhiều. Tuy nhiên bộ máy cai trị các cấp phủ - huyện - tổng so với trước thế kỷ XIX, kể cả sau cải cách hành chính thời Minh Mệnh, về cơ bản không có gì thay đổi lớn. Đến năm 1823 Minh Mệnh quy định mỗi phủ huyện chỉ có một viên, trừ những phủ, huyện cần người làm việc thì đặt thêm một viên đồng Tri phủ hoặc một viên Huyện thừa.
Theo những quy định cụ thể ban hành năm 1827 thì phủ nào số đinh chưa đến 2 vạn người, ruộng chưa đến 4 vạn mẫu, huyện nào số đinh chưa đến 5 ngàn người, ruộng chưa đến 2 vạn mẫu thì chỉ đặt 1 tri phủ, 1 tri huyện. Trấn Sơn Nam Hạ lúc đầu chỉ có hai huyện Nam Chân và Chân Định là đặt thêm chức Huyện thừa, nhưng về sau cả hai phủ Thiên Trường và Nghĩa Hưng đều có thêm chức đồng Tri phủ. Tuy nhiên thường thì Tri phủ hoặc đồng Tri phủ trực tiếp kiêm quản một huyện (cũng có khi hơn) thuộc hạt. Nghị chuẩn năm 1833 cho phủ Thiên Trường kiêm quản huyện Giao Thủy (đặt thêm ở huyện này chức Huyện thừa), viên đồng Tri phủ kiêm quản huyện Thượng Nguyên, cho phủ Nghĩa Hưng kiêm quản huyện Thiên Bản, viên đồng Tri phủ kiêm quản huyện Phong Doanh. Ngoài ra ở cấp phủ, huyện còn có quan chuyên trách về việc học và thi cử. Phủ có chức Giáo thụ, huyện có chức Huấn đạo. Tuy nhiên không phải phủ huyện nào cũng đặt các chức này, thường phải là những phủ, huyện việc học hành và khoa cử phát triển. Hai phủ Thiên Trường và Nghĩa Hưng đều có chức Giáo thụ. Các huyện Nam Chân, Trực Ninh, Thượng Nguyên, Đại An, Ý Yên, Phong Doanh có chức Huấn đạo.
Đối với cấp tổng, đầu đời Gia Long đặt chức Tổng trưởng, sau đổi thành Cai tổng và có thêm viên phó Cai tổng giúp việc. Đến năm 1822 quy định cụ thể chỉ tổng nào đinh số trên 5 ngàn người, ruộng đất trên 1 ngàn mẫu lại nằm cách huyện lỵ 2 ngày đường trở lên mới đặt chức phó Cai tổng. Riêng cấp xã, thôn từ chỗ người đứng đầu là các Xã trưởng và mỗi xã, thôn có thể có từ một đến nhiều Xã trưởng thì từ năm 1828 đổi thành chức Lý trưởng và mỗi xã, thôn chỉ có một Lý trưởng, trường hợp xã lớn có thể có thêm từ một đến hai phó Lý trưởng giúp việc.
Đặc biệt ở thời Nguyễn, Nam Định là một trong số ít địa phương được triều đình cho xây Thành, dựng Cột cờ, Văn miếu, Trường thi Hương….Điều đó đã khẳng định vai trò và vị thế địa chính trị - văn hóa, kinh tế - xã hội của mảnh đất Thành Nam trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong công cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương, người Pháp đã quy hoạch và xây dựng Nam Định trở thành một trong ba thành phố công nghiệp lớn ở Bắc Kỳ. Ngày 17/10/1921, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Thành phố Nam Định, được hưởng quy chế thành phố cấp III. Ngày 01/7/1954, Thành phố Nam Định là thành phố đầu tiên trong cả nước được hoàn toàn giải phóng.
Bước vào giai đoạn lịch sử mới, ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 103-NQ/TVQH sáp nhập hai tỉnh Hà Nam và Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà đặt tại thành phố Nam Định. Ngày 27/12/1975, Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ Hai quyết định hợp nhất tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Trụ sở hành chính của tỉnh đặt tại thành phố Nam Định. Ngày 26/12/1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10 ra Nghị quyết chia tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh là Nam Hà và Ninh Bình. Theo đó, tỉnh Nam Hà đặt trụ sở hành chính đặt tại thành phố Nam Định.
Ngày 6/11/1996, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 ra Quyết định tách tỉnh Nam Hà thành tỉnh Nam Định và Hà Nam. Từ đó, tỉnh Nam Định ổn định cho đến hiện nay. Trị sở của tỉnh đặt tại Thành phố Nam Định. Trong Quy hoạch chung Thành phố Nam Định đến năm 2040 tầm nhìn đến năm 2050, trong đó xác định thành phố Nam Định là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, đào tạo, y tế, dịch vụ du lịch của vùng Nam đồng bằng sông Hồng; là đô thị có các giá trị văn hóa, lịch sử nổi trội; khu vực có vị trí quan trọng về quốc phòng - an ninh.
Đặc biệt, tới đây để sẵn sàng tâm thế bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, cấp bách mà tỉnh Nam Định cũng như các tỉnh, thành phố trong cả nước phải làm là quyết tâm củng cố tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Sau khi rà soát, sắp xếp, tinh gọn tỉnh còn 12 sở, ngành với 101 tổ chức hành chính trực thuộc sở, ngành (90 phòng, 11 chi cục), 99 ĐVSNCL và 2 tổ chức hành chính cấp tỉnh đặt tại 2 sở mới (Văn phòng Điều phối nông thôn mới, Văn phòng Ban An toàn giao thông tỉnh); giảm 5 sở, ngành và 35 tổ chức hành chính trực thuộc (32 phòng, 3 Chi cục), đạt tỷ lệ giảm 26% tổ chức hành chính thuộc sở, ngành so với trước khi sắp xếp tổ chức bộ máy. Giảm 5 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sở, ngành có tương đồng về chức năng, nhiệm vụ và đối tượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công.
Phát biểu tại hội nghị gần đây, đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh, Chủ tịch HĐND tỉnh, Bí thư Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh khẳng định, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, hợp với ý nguyện của nhân dân, góp phần nâng cao hiệu năng, hiệu lực hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Thực hiện Đề án và Quyết định của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, những ngày qua, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Đảng tỉnh đã tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy, nhất là việc thành lập các đảng bộ, chi bộ...
Đồng chí tin tưởng các đảng bộ, chi bộ mới được thành lập sẽ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất sáng tạo đổi mới hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng thời đề nghị các đảng bộ, chi bộ mới được thành lập tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện ngay các nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ theo quy định; khẩn trương xây dựng Quy chế làm việc của Đảng ủy, chi ủy, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đồng chí trong ban chấp hành, chi ủy. Lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị tốt các nội dung, điều kiện tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030..