Nâng cao năng lực ngoại ngữ cho SV là rất cần thiết nhưng có nhiều thách thức
Việc đánh giá năng lực ngoại ngữ đầu vào của sinh viên đã được giao quyền tự chủ cho cơ sở đào tạo theo đề án tổ chức dạy và học bằng tiếng nước ngoài là hợp lý.
Vừa qua, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 91-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
Trong đó tiếp tục thực hiện nhiệm vụ: "Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Tập trung nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo tiên tiến trên thế giới...".
Hiện nay, quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác đang được áp dụng theo Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg ngày 17/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Rà soát việc thực hiện Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg thời gian qua, cho thấy, bên cạnh những ưu điểm khi thực hiện việc dạy và học bằng ngoại ngữ tại một số địa phương và các cơ sở giáo dục đại học vẫn còn những hạn chế.
Do đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành liên quan xây dựng dự thảo “Nghị định quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục” để trình Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Nâng cao năng lực ngoại ngữ cho người học là cần thiết nhưng vẫn còn khó khăn khi thực hiện
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho biết: “Việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, dạy học bằng tiếng nước ngoài là mục tiêu đúng đắn giúp sinh viên cải thiện khả năng ngôn ngữ và chuẩn bị sẵn sàng cho việc gia nhập thị trường lao động quốc tế, đáp ứng yêu cầu nhân lực cho các ngành kinh tế mới, công nghệ cao.
Năm 2023, Tổ chức giáo dục quốc tế EF Education First công bố bảng xếp hạng chỉ số thành thạo tiếng Anh EF EPI ở 113 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam xếp thứ 58/113, đang ở trong nhóm có độ thông thạo tiếng Anh chỉ ở mức trung bình trên thế giới.
Vì vậy, để thực hiện thành công mục tiêu này, rất cần có sự vào cuộc của toàn xã hội, của các Bộ, Ban, ngành, của cộng đồng.
Đặc biệt, rất cần sự đầu tư chiến lược lâu dài, nhất là từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, đơn vị đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước; khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lưu Thùy Ngân - Phó hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) cũng đánh giá, việc nâng cao năng lực ngoại ngữ cho người học là điều quan trọng, đặc biệt với sinh viên trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Cô Ngân bày tỏ: “Rất nhiều sinh viên của Trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), sau khi tốt nghiệp, đã làm việc ở các doanh nghiệp nước ngoài hoặc các dự án có đối tác nước ngoài. Một bộ phận sinh viên đi du học để tiếp tục học lên thạc sĩ/tiến sĩ. Lĩnh vực công nghệ thông tin lại không ngừng phát triển bởi vậy yêu cầu cao về ngoại ngữ với người học là điều cần thiết.
Việc dạy một số học phần bằng ngoại ngữ tạo môi trường cho sinh viên rèn luyện tiếng Anh chuyên ngành, hỗ trợ tích cực cho công việc sau này, cũng như mục tiêu nâng cao trình độ học vấn.
Thực tế, các sinh viên học chương trình liên kết quốc tế, dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh của nhà trường có năng lực ngoại ngữ và chuyên môn tốt nên được nhà tuyển dụng đánh giá cao”.
Tuy nhiên, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) cũng thông tin thêm, số lượng sinh viên có nhu cầu theo học các môn được giảng dạy bằng ngoại ngữ của nhà trường không nhiều, chỉ khoảng 5% số lớp được mở, ước lượng tương đối là 5% trên tổng số sinh viên.
Hơn nữa, không phải sinh viên nào cũng đảm bảo về đầu vào tiếng Anh, nên nhà trường gặp một số khó khăn, khi có những sinh viên năm nhất chưa quen sử dụng tiếng Anh. Bởi vậy, nhà trường phải bố trí trợ giảng hỗ trợ thêm cho nhóm sinh viên này.
Về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế) cũng khẳng định: “Nâng cao năng lực ngoại ngữ cho học sinh và sinh viên (nhất là tiếng Anh) là nhu cầu cấp thiết trong các trường học, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học.
Việc khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo tiên tiến ở trên thế giới chính là một trong các định hướng quan trọng của hội nhập quốc tế trong giáo dục.
Tuy nhiên, nhu cầu người học đối với các chương trình này chưa lớn. Đặc biệt là khu vực miền Trung do học phí cao hơn chương trình chuẩn và tiếng Anh của người học còn hạn chế khiến việc triển khai dạy học bằng ngoại ngữ vẫn gặp nhiều trở ngại”.
Vị hiệu trưởng cho biết thêm: “Trình độ ngoại ngữ của học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học vẫn vẫn ở mức tương đối thấp so với yêu cầu để triển khai các chương trình liên kết, chương trình dạy bằng tiếng Anh. Sinh viên không đủ năng lực ngoại ngữ để học tập chuyên môn hoặc cần có thời gian đào tạo ngoại ngữ trước.
Dù sau khi vào đại học, trình độ ngoại ngữ của sinh viên có những tiến bộ nhất định, song chưa được đồng đều, không phải tất cả sinh viên đều có trình độ giống nhau, nhất là các em xuất phát từ các vùng khó khăn, không có điều kiện thuận lợi để học ngoại ngữ”.
Một khó khăn nữa được Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân đề cập: “Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế) ở khu vực miền Trung, nên thông thường các chương trình liên kết có học phí cao hơn so với năng lực chi trả của gia đình và sinh viên vì thu nhập của người dân ở vùng này chưa cao.
Các đơn vị đối tác thường chọn các cơ sở giáo dục ở các thành phố lớn, vì mang lại nhiều tiềm năng về đầu vào, học phí và từ đó khả năng triển khai và lợi ích của đối tác sẽ dễ dàng đảm bảo”.
Cần thêm chính sách thu hút người tài, đầu tư nâng cao năng lực chuyên môn và ngoại ngữ cho giảng viên
Tại điểm b, Khoản 1, Điều 5, Chương II của dự thảo Nghị định quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong các cơ sở giáo dục, có nêu: “Giảng viên dạy tại các cơ sở giáo dục đại học phải có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của chương trình, nhưng không thấp hơn trình độ bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu chia sẻ: “Việc quy định năng lực ngoại ngữ của theo dự thảo Nghị định là yêu cầu vô cùng quan trọng, nhằm đảm bảo chất lượng giảng dạy và sự phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra nhiều thách thức cho các trường đại học trong việc chuẩn bị đội ngũ giảng viên đủ năng lực.
Việc nâng cao trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên hiện hữu đòi hỏi thời gian, nguồn lực đầu tư cho đào tạo và bồi dưỡng. Việc thu hút giảng viên có trình độ ngoại ngữ cao cũng không dễ dàng, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng về mặt nhân sự giữa các trường đại học.
Theo tôi, các trường đại học cần thiết kế và triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên hiện có để nâng cao trình độ theo tiêu chuẩn mới; tăng cường chính sách hấp dẫn để thu hút giảng viên có trình độ ngoại ngữ cao từ các trường khác hoặc từ nước ngoài; đẩy mạnh hợp tác với các trường đại học và tổ chức giáo dục quốc tế để đổi mới chương trình đào tạo, đồng thời mở rộng cơ hội cho giảng viên tham gia các khóa học và hội thảo quốc tế, trao đổi giảng viên, sinh viên”.
Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực thông tin, giảng viên của nhà trường có trình độ tiếng Anh tốt, được đào tạo bài bản ở nước ngoài. Đội ngũ này đã tham gia giảng dạy các học phần chuyên môn bằng Tiếng Anh trong chương trình chất lượng cao, chương trình liên kết đào tạo quốc tế.
Tuy nhiên, để triển khai giảng dạy trên diện rộng cho hầu hết các ngành, thì chưa đáp ứng về số lượng, bên cạnh đó kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên chưa nhiều, vẫn luôn phải vừa dạy và trau dồi thêm kỹ năng tiếng Anh.
Mặc dù, Trường Đại học Điện lực có các cơ chế thu hút nhân tài, nhưng việc thu hút và giữ chân được giảng viên có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh vẫn còn hạn chế.
Để đáp ứng điều kiện về đội ngũ, đòi hỏi nhà trường phải nâng cao chất lượng đội ngũ bằng cách đưa ra kế hoạch cụ thể về đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên bài bản, đáp ứng nâng cao khả năng sử dụng tiếng Anh trong giảng dạy, có kế hoạch đầu tư ngân sách, tài chính phù hợp để đầu tư cho cơ sở vật chất, tài liệu và chương trình đào tạo.
Với Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế), Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân cho biết, nhà trường có gần 80 tiến sĩ, trong đó 70% tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài, đảm bảo năng lực ngoại ngữ cùng chuyên môn giảng dạy để triển khai việc dạy học bằng tiếng nước ngoài.
Để hội nhập và thực hiện các chương trình liên kết tốt hơn, Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế) tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, thông qua việc cử các giảng viên đi học nước ngoài, chi trả tiền bồi dưỡng ngoại ngữ để thúc đẩy nâng cao năng lực chuyên môn và ngoại ngữ cho giảng viên một cách thường xuyên.
Ngoài những quan điểm liên quan đến năng lực ngoại ngữ của giảng viên, lãnh đạo các trường đại học có đề cập đến các vấn đề khác trong dự thảo Nghị định quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong các cơ sở giáo dục, như chương trình đào tạo, ứng dụng công nghệ, phát triển hệ thống tài liệu điện tử.
Cụ thể, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu chia sẻ: “Về chương trình và tài liệu giảng dạy các chương trình đào tạo, luôn đòi hỏi cao về chất lượng tài liệu giảng dạy cũng như các nguồn học liệu, nên phải liên tục được cập nhật và chuẩn hóa. Việc cập nhật và duy trì chất lượng tài liệu cũng là một thách thức, đặc biệt khi các xu hướng và thông tin liên tục thay đổi.
Quá trình thẩm định chương trình và tài liệu giảng dạy bằng tiếng nước ngoài cần tuân theo các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và tính phù hợp với nhu cầu của sinh viên.
Các tài liệu, giáo trình thường phải được thẩm định bởi các Hội đồng thẩm định, Hội đồng Khoa học, trong đó có các chuyên gia đầu ngành và có sự chấp thuận của các cơ quan quản lý giáo dục”.
Thầy Châu nhấn mạnh: “Việc khuyến khích ứng dụng công nghệ và phát triển hệ thống tài liệu điện tử trong dạy và học bằng tiếng nước ngoài là hướng đi đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh giáo dục hiện đại.
Dự thảo Nghị định đề xuất nội dung này thể hiện rõ ràng về tầm quan trọng của công nghệ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và hỗ trợ quá trình học tập của sinh viên.
Công nghệ không chỉ giúp tối ưu hóa quá trình giảng dạy, mà còn mở rộng khả năng tiếp cận thông tin và tài liệu học tập cho sinh viên. Việc sử dụng tài liệu điện tử giúp tiết kiệm chi phí, bảo vệ môi trường và tạo điều kiện cho việc cập nhật kiến thức một cách nhanh chóng, hiệu quả”.
Cũng nhắc đến việc sử dụng công nghệ và phát triển hệ thống tài liệu điện tử trong giảng dạy và học tiếng nước ngoài, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế) đánh giá: “Đây là xu hướng tất yếu, hỗ trợ các trường để có nguồn học liệu phong phú và giảm bớt chi phí đào tạo trong một số nội dung như thực hiện dạy online một số học phần. Tuy nhiên, việc đầu tư này thường phải đồng bộ và cần kinh phí lớn mới có thể phát huy tác dụng”.
Giao các trường tự chủ việc đánh giá năng lực ngoại ngữ đầu vào của sinh viên là phù hợp
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu nhận xét: “Dự thảo Nghị định của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong các cơ sở giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm cập nhật và khắc phục các vấn đề từ Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg.
Dự thảo này không chỉ phản ánh nhu cầu thực tiễn, mà còn đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập giáo dục quốc tế.
So sánh với Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg, dự thảo đã đề cập đến việc cải thiện và cụ thể hóa các quy định về điều kiện, về tiêu chuẩn ngoại ngữ của người dạy, cơ sở vật chất, và chất lượng giáo trình, nhằm khắc phục tình trạng thiếu thống nhất và thiếu minh bạch trong quyết định cũ.
Nếu được thông qua, dự thảo Nghị định sẽ tăng cường tính linh hoạt và đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong việc áp dụng chương trình giảng dạy bằng tiếng nước ngoài, phù hợp với từng trình độ và nhu cầu cụ thể của sinh viên và nhà trường”.
Bên cạnh đó, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cũng quan tâm đến các quy định mới về công tác đào tạo giáo viên, cải thiện chất lượng giáo trình và tài liệu giảng dạy bằng tiếng nước ngoài, cũng như cách thức kiểm định và đánh giá chất lượng các chương trình này.
“Những quy định trên sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và khả năng hội nhập quốc tế của sinh viên.
Đặc biệt, trong dự thảo, có bổ sung Điều 12. Thời hạn có hiệu lực của Quyết định phê duyệt đề án và Điều 13. Gia hạn hiệu lực thực hiện Đề án.
Theo đó, Điều 12 giúp các cơ sở giáo dục có thể lập kế hoạch và triển khai các chương trình dạy học bằng tiếng nước ngoài một cách hiệu quả và có thời hạn rõ ràng.
Điều 13 có ý nghĩa cho phép gia hạn thực hiện các dự án và đưa lại cho có cơ sở giáo dục sự linh hoạt trong quản lý và điều chỉnh kế hoạch dạy học để phù hợp với thực tiễn và các thay đổi trong chính sách giáo dục
Cả hai điều khoản này cho thấy sự cải tiến trong quản lý và triển khai các chương trình giảng dạy bằng tiếng nước ngoài, đảm bảo tính bền vững và phát triển lâu dài của các dự án giáo dục, trong bối cảnh hiện đại hóa và quốc tế hóa giáo dục” - thầy Châu bày tỏ.
Nhận xét về dự thảo Nghị định này, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế) cũng đánh giá, đã có những thay đổi đáng kể so với Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg:
“Nhất là theo khoản 2, Điều 5, Chương II: “Người học tham gia theo tinh thần tự nguyện và có khả năng theo học môn học được dạy bằng ngoại ngữ. Kiểm tra đầu vào đối với người học do cơ sở giáo dục thực hiện và được mô tả trong Đề án tổ chức dạy và học bằng tiếng nước ngoài”.
Như vậy, việc đánh giá năng lực ngoại ngữ đầu vào của sinh viên đã được giao quyền tự chủ cho cơ sở đào tạo theo đề án.
Điều này phù hợp với thực tế hơn là quy định nêu trong khoản 2, Điều 4, Chương II của Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg: “Người học phải đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ theo yêu cầu của chương trình, môn học được dạy bằng tiếng nước ngoài và theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam và tương đương”.
Ngoài ra, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân cũng dành sự quan tâm đến vấn đề đảm bảo năng lực tiếng Anh đầu vào của sinh viên khi tham gia các môn học được giảng dạy bằng ngoại ngữ.
Vị Hiệu trưởng kiến nghị: “Chúng ta cần đổi mới việc dạy ngoại ngữ ở các bậc học phổ thông; đưa việc dạy ngoại ngữ đồng bộ ngay từ cấp tiểu học đến trung học phổ thông; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và thay đổi phương pháp dạy ngoại ngữ, dạy theo hướng để sử dụng, không chỉ tập trung dạy để thi, để kiểm tra, đánh giá”.
Đồng tình với ý kiến trên, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) cũng nhận định: “Dự thảo Nghị định quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong các cơ sở giáo dục có 24 điều, chi tiết và đầy đủ hơn so với Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg. Đặc biệt là về thủ tục phê duyệt, gia hạn đề án. Điều này có thể giúp quản lý chất lượng tốt hơn, đồng thời cung cấp hướng dẫn rõ ràng hơn để các cơ sở giáo dục thực hiện.
Ngoài ra, tôi cũng cho rằng, quy định nêu trong khoản 2, Điều 5, Chương II là rất xác đáng (về năng lực ngoại ngữ của người học, cơ sở giáo dục thực hiện kiểm tra đầu vào đối với người học và được mô tả trong Đề án tổ chức dạy và học bằng tiếng nước ngoài).
Bởi lẽ, thực tế, có nhiều sinh viên chưa đạt chuẩn đầu vào để tham gia các chương trình giảng dạy bằng ngoại ngữ, nhưng khi có môi trường học tập hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài, kỹ năng ngoại ngữ của các em sinh viên này đã tiến bộ đáng kể”.