Năng lực độc đáo của tàu ngầm hạt nhân hiện đại
Tàu ngầm hạt nhân vận hành nhờ năng lượng sinh ra từ phản ứng hạt nhân bên trong lò phản ứng.
Nhờ năng lượng hạt nhân mà loại tàu này không còn phụ thuộc vào không khí, do đó không nhất thiết phải nổi lên mặt nước thường xuyên, có thể vận hành tốc độ cao trong 25 năm liên tục mà không phải nạp nhiên liệu. Việc nghiên cứu, phát triển tàu ngầm phải hướng tới hai khả năng nổi trội là khả năng tàng hình và năng lực tấn công. Để đạt được mục tiêu này, các nhà sản xuất thực hiện những giải pháp chủ yếu sau.
Tối ưu hóa thiết kế tổng thể
Để nâng cao tính năng hoạt động dưới nước, các loại tàu ngầm hiện đại đều sử dụng cấu hình con thoi, tối ưu hóa thiết kế hai bên thân tàu và các bộ phận phụ của tàu, giảm sức cản khi vận hành. Để nâng cao độ lặn sâu, tàu ngầm hiện đại chủ yếu sử dụng vật liệu có sức bền cao, chịu áp lực tốt để chế tạo vỏ tàu. Nhằm nâng cao hiệu suất hoạt động, các tàu ngầm được thiết kế theo kiểu phân chia thành các khoang lớn.
Với giải pháp công nghệ này, tàu ngầm hiện đại sẽ đạt tốc độ ngày càng cao, độ lặn sâu lớn, thao tác càng trở nên đơn giản.
Phát triển mạnh mẽ kĩ thuật tàng hình
Ưu thế chủ yếu của tàu ngầm là tính năng tàng hình. Tiếng ồn, trong đó có tiếng ồn bức xạ là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp và làm giảm khả năng tàng hình và năng lực trinh sát của tàu. Vì vậy, các nhà sản xuất chủ trương tăng cường đầu tư nhân lực, tài lực để nghiên cứu, phát triển kĩ thuật tàng hình, giảm tiếng ồn của tàu ngầm. Nhờ đó đã có những bước đột phá quan trọng, âm thanh của tàu ngầm đã giảm từ 160-170Hz trước đây xuống còn 110-120 Hz như hiện nay.
Và kĩ thuật điện tử
Một là, thiết bị định vị bằng sonar, cả chủ động và bị động. Không những trang bị trên tàu, các sonar còn được trang bị cả ở hai bên thân tàu, nhờ đó, nâng cao đáng kể độ chính xác và năng lực trinh sát, quan sát của tàu, tạo điều kiện đánh đòn phủ đầu vào đối phương.
Hai là, kính tiềm vọng quang điện, sử dụng các tia vi quang, tia la-de, tia hồng ngoại và kết hợp với các trạm điện tử để thu thập tin tức; thông qua cáp quang truyền các thông tin ấy về tàu và trực tiếp hiển thị trên màn hình trên tàu, làm cho hiệu quả quan sát của tàu được nâng lên rất nhiều.
Ba là, hệ thống định vị dẫn đường, làm cho độ chính xác trong dẫn đường được nâng lên gấp đôi, thời gian dẫn đường cũng kéo dài từ 1 ngày lên đến 18 ngày, tính năng tàng hình của tàu được cải thiện. Ngoài ra, hệ thống thông tin và hệ thống tác chiến tổng hợp cũng được ứng dụng rộng rãi cho các tàu ngầm hạt nhân hiện đại.
Đa dạng hóa hệ thống vũ khí, trang bị
Tàu ngầm hiện đại không chỉ mang theo các loại ngư lôi mà còn mang theo các loại tên lửa đối hạm và nhiều vũ khí hiện đại khác. Tàu ngầm chiến lược còn trang bị tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân để thực hiện tiến công chiến lược, tức mở rộng phạm vi nhiệm vụ chiến đấu.
Do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tên lửa đạn đạo, tầm bắn của tên lửa được nâng lên từ vài trăm đến 11.000 – 12.000km, độ chính xác cũng được nâng cao. Các loại tên lửa này còn sử dụng kĩ thuật tàng hình, tiến công bằng nhiều đầu đạn, có khả năng chống bức xạ, năng lực tiến công đột kích cũng được cải thiện đáng kể.
Việc sử dụng kĩ thuật phân tách các đầu đạn cũng làm cho sức uy hiếp của tên lửa được nâng lên. Hiện nay, tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo đã trở thành bộ phận quan trọng trong chiến lược hạt nhân “ba trong một” của các cường quốc quân sự.
Cải tiến công nghệ động cơ hạt nhân
Sự phát triển của công nghệ động cơ hạt nhân chủ yếu biểu hiện ở ba mặt: một là nâng công suất phản ứng nhanh và công suất tối đa của tàu ngầm (hiện nay là 250 MW); hai là thông qua nâng công suất phản ứng nhanh để nâng cao tính an toàn của động cơ; ba là giảm thể tích của động cơ, sử dụng thiết kế nhất thể hóa các kết cấu.
Ngoài ra, để đối phó với các loại vũ khí chống ngầm đang phát triển nhanh chóng như hiện nay, tàu ngầm được trang bị nhiều loại thiết bị đối kháng âm thanh dưới nước như thiết bị nhử mồi, thiết bị mô phỏng, đạn gây nhiễu, hệ thống không người lái đảm nhiệm việc thu thập tin tức tình báo, trinh sát và tác chiến điện tử.
Tàu còn đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải thiện, nâng cấp cả khả năng đứng chân của nó, khả năng duy trì môi trường và điều kiện hoạt động thuận lợi. Việc này sẽ giúp tàu phát huy nhiều tính năng tác dụng, bảo đảm sức chiến đấu và sức sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.