Năng suất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp
Năng suất của nền kinh tế Việt Nam vẫn thấp, tính đổi mới sáng tạo và khả năng cạnh tranh chưa cao và các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được lợi thế so sánh cần thiết.
Đây là thông tin được đưa ra trong Báo cáo “Năng suất và khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp ngành Công nghiệp Chế biến chế tạo của Việt Nam”, được Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) và Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) công bố sáng 26/4.
Theo báo cáo, chỉ số cạnh tranh công nghiệp, xuất khẩu công nghiệp chế tạo và chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) của Việt Nam trong những năm gần đây đã liên tục được cải thiện so với các nước trong khu vực. Trong một số chỉ tiêu (như tỷ lệ giá trị gia tăng trên giá trị đầu ra hoặc doanh thu và RCA) Việt Nam vượt trội so với Ấn Độ và Bangladesh.
Trong các chỉ số hiệu suất công nghiệp chế biến, chế tạo khác, đặc biệt là năng suất lao động, Việt Nam tụt lại sau các nước so sánh. Năng suất lao động ngành chế biến chế tạo của Việt Nam vẫn chỉ bằng khoảng 1/4 năng suất lao động của Trung quốc và Malaysia, 1/3 của Indonesia và Philippines,1/2 của Ấn Độ và Thái Lan, và chỉ bằng khoảng 7% của Nhật Bản và Hàn quốc vào năm 2015. Tuy nhiên, trong khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang tăng tốc và tạo ra nguy cơ mất việc làm có kỹ năng đơn giản và lặp đi lặp lại do tự động hóa trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thì phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam lại có mức độ sẵn sàng đối với CMCN 4.0 còn rất thấp.
Đánh giá về sự tăng trưởng của Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Nguyên Anh, Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, cho biết: “Với thu nhập bình quân đầu người dự kiến đạt 3.000 đô la Mỹ vào năm 2020 thì theo phương pháp luận của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam đã qua giai đoạn có tăng trưởng chủ yếu dựa vào gia tăng các yếu tố đầu vào mà bắt đầu chuyển sang giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào hiệu quả và năng suất. Các động lực tăng trưởng đã giúp Việt Nam đạt được kết quả cao trong giai đoạn kể từ khi Đổi mới đến nay như tài nguyên khoáng sản, lao động giá rẻ... đang tiến dần đến trần giới hạn. Vì vậy, Việt Nam Nam cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng dựa nhiều hơn vào tăng năng suất, đổi mới sáng tạo và năng lực cạnh tranh của các DN”.
Do đó, để nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, bản Báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị, Việt Nam cần chuyển trọng tâm thu hút FDI từ số lượng sang chất lượng và gia tăng liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp FDI; phát triển hệ sinh thái, chuyển dịch lên các mức cao hơn trong các chuỗi giá trị địa phương và toàn cầu. Đồng thời, cần tăng tỷ lệ nội địa và đặc biệt là khối lượng, giá trị xuất khẩu cần được thực hiện thông qua các hành động chính sách một cách tích cực và hài hòa.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có hành động khẩn cấp để giải quyết các điểm yếu về mối liên kết hạn chế giữa đàm phán thương mại, các chính sách công nghiệp và các chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp; Hợp tác với các doanh nghiệp FDI nhắm hỗ trợ phát triển năng lực của doanh nghiệp trong nước để có hể hưởng lợi từ việc chuyển giao công nghệ.
Mặt khác, Chính phủ nên ưu tiên phát triển khu vực tư nhân trong nước cũng như các mục tiêu chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân tăng trưởng về quy mô, đẩy nhanh quá trình chính hức hóa và nâng cao năng suất, khả năng cạnh. Bên cạnh những nỗ lực không ngừng nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận đất đai, tín dụng thì cần có sự hỗ trợ phù hợp hơn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nhấn mạnh về vai trò của phát triển năng suất doanh nghiệp, bà Caitlin Wiesen, Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam nhìn nhận: “Nâng cao năng suất của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến chế tạo và đổi mới sáng tạo là then chốt để Việt Nam có thể tránh được bẫy thu nhập trung bình và tiến tới đạt được tăng trưởng bao trùm. Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho thử nghiệm và áp dụng cách làm mới đối với các doanh nghiệp tư nhân để có thể xác định các nút thắt cổ chai kìm hãm sự phát triển của mỗi tiểu ngành và có các hành động cụ thể nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi này”.
Bên cạnh đó, theo bà Wiesen, cần có nền tảng kết nối Chính phủ, các doanh nghiệp FDI và trong nước theo cách tiếp cận các bên cùng có lợi , nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào xây dựng năng lực sản xuất và doanh nghiệp FDI sử dụng nhiều hạng mục và dịch vụ do địa phương cung cấp.