Nâng sức cạnh tranh cho nông sản

Trong 10 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đạt nhiều thành tựu toàn diện. Tốc độ tăng trưởng GDP ngành duy trì 2,5 – 3,5%/năm đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế khiến tỷ lệ thất thoát ở rau quả, thủy sản vẫn cao.

Công nghệ góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản. Ảnh: Chu Khôi.

Công nghệ góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản. Ảnh: Chu Khôi.

Ứng dụng công nghệ vẫn hạn chế

Nhìn nhận về việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) Phùng Đức Tiến cho biết, trong 10 năm qua, ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu toàn diện.

Trước hết, tốc độ tăng trưởng GDP ngành luôn duy trì ổn định từ 2,5 – 3,5%/năm, một con số đáng ghi nhận trong bối cảnh toàn cầu biến động. Bên cạnh đó, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024 đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng gần 19% so với năm 2023, đưa Việt Nam trở thành một trong 10 quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Không chỉ dừng ở con số xuất khẩu, cơ cấu ngành cũng đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Tỷ trọng chế biến ngày càng tăng, thay thế dần sản xuất thô, trong khi nông nghiệp xanh, tuần hoàn và chuyển đổi số bắt đầu hình thành rõ nét ở nhiều địa phương.

Đặc biệt, công nghệ bảo quản và chế biến đã giúp giảm tổn thất sau thu hoạch từ 5 - 10%, đồng thời kéo dài thời hạn bảo quản, nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường quốc tế.

Song song với đó, quá trình cơ giới hóa nông nghiệp cũng có bước tiến mạnh mẽ. Hiện nay, tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất đã đạt trên 95%; các mô hình sử dụng drone, cảm biến IoT, trí tuệ nhân tạo và robot nông nghiệp đang dần được triển khai tại những vùng sản xuất hàng hóa lớn. Nhờ vậy, năng suất lao động được cải thiện, chi phí sản xuất giảm, và thu nhập của nông dân từng bước nâng cao.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ NNMT cũng thẳng thắn nhìn nhận, những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Cụ thể, việc ứng dụng công nghệ cao trong bảo quản và chế biến còn hạn chế, dẫn tới tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của một số mặt hàng, đặc biệt là rau quả và thủy sản vẫn cao. Mặt khác, cơ giới hóa tuy đạt mức cao ở khâu làm đất nhưng lại thiếu sự đồng bộ ở các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và sau thu hoạch. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp (DN) chế biến còn quy mô nhỏ, thiếu liên kết, đầu tư phân tán, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Công nghệ - chìa khóa nâng sức cạnh tranh

Trước thực tế trên, TS Nguyễn Anh Phong - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách NNMT (Bộ NNMT), cho rằng, kinh tế tuần hoàn mang lại lợi ích đa chiều: giảm chất thải, tiết kiệm tài nguyên (môi trường); cắt giảm chi phí đầu vào, tăng giá trị đầu ra (kinh tế); tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống (xã hội).

“Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định và chương trình hành động, hình thành khung chính sách khá đầy đủ để thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn. Thực tế, nhiều mô hình đã được áp dụng từ quy mô DN, hợp tác xã đến nông hộ, bước đầu hình thành hệ sinh thái tuần hoàn.Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế như, nhận thức của DN và người tiêu dùng chưa đầy đủ; chính sách hỗ trợ còn phân tán, chưa có chương trình riêng; tỷ lệ tái sử dụng phụ phẩm thấp, cụ thể trồng trọt mới đạt 52%, lâm nghiệp đạt khoảng 50%” - TS Nguyễn Anh Phong cho biết.

Để có thể định vị được thương hiệu nông sản Việt trên thị trường thế giới, ông Phong cho rằng, cần phải đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất. “Yêu cầu về sản phẩm xanh ngày càng gia tăng tại EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... Đây vừa là áp lực vừa là động lực để DN Việt Nam đổi mới theo hướng tuần hoàn” - ông Phong nhấn mạnh đồng thời cho biết, về giải pháp, Bộ NNMT đã ban hành 4 chương trình hành động cho trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp, tạo cơ sở triển khai khoa học – công nghệ gắn với hành động cụ thể. Song song, cần xây dựng bộ tiêu chí sản xuất tuần hoàn, cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), phát triển tín dụng xanh và ưu tiên DN đạt chuẩn xanh trong tiếp cận vốn, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu.

Ngoài ra, các mô hình liên kết hợp tác xã– DN cần được ưu tiên để hình thành hệ sinh thái tuần hoàn gắn với vùng sản xuất tập trung và chế biến. Một nhiệm vụ cấp thiết khác là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tuần hoàn, tạo nền tảng thông tin minh bạch cho DN, hợp tác xã và người dân.

Đồng thời, cần huy động nguồn lực ngân sách, ODA và hỗ trợ quốc tế cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ bảo quản, chế biến tiên tiến, qua đó nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Theo Thứ trưởng Bộ NNMT Phùng Đức Tiến, để hiện thực hóa những mục tiêu trên, trước hết, Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Song song với đó, Bộ cũng sẽ phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng, gắn kết chặt chẽ giữa viện – trường – DN. Ngoài ra, hợp tác quốc tế sẽ được mở rộng, đặc biệt trong các lĩnh vực chế biến sâu, logistics và cơ giới hóa thông minh. Bộ cũng chú trọng thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu khoa học, huy động nguồn lực từ ngoài ngân sách Nhà nước, nhằm tạo thêm động lực cho đổi mới sáng tạo.

Khanh Lê

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/nang-suc-canh-tranh-cho-nong-san.html