Nâng tầm cây dẻ trở thành cây làm giàu - Kỳ 1

Mùa thu về, trên địa bàn các xã: Trùng Khánh, Đàm Thủy, Đình Phong lại khoác lên mình tấm áo vàng của nắng, của gió và của những hạt dẻ chín. Ở "thủ phủ" hạt dẻ nức tiếng ấy, người ta không chỉ tìm thấy một đặc sản thơm bùi, mà còn tìm thấy một câu chuyện dài về những cây dẻ cổ thụ, về cuộc sống của người dân nông thôn phía Đông của tỉnh và khát vọng làm giàu trên chính mảnh đất của mình.

Kỳ 1: Những bước thăng trầm của cây dẻ

Cây dẻ huyện Trùng Khánh (cũ) đã đi qua những thăng trầm, từ một loại cây mọc tự nhiên đến một cây trồng chủ lực, mang lại giá trị kinh tế cao cho nhiều gia đình. Thế nhưng, hành trình để cây dẻ tỏa sáng là một câu chuyện dài, với những thăng trầm và cả những nghịch lý. Đây là câu chuyện về hành trình đánh thức một tiềm năng lớn, từ cây dẻ tự nhiên được nâng tầm trở thành cây làm giàu, đổi đời cho hàng nghìn hộ dân.

Từ cây cổ thụ đến cây trồng có giá trị kinh tế cao

Những ngày tháng 9, tháng 10, khi những cơn gió heo may bắt đầu len lỏi qua từng vách núi đá vôi, cũng là lúc những cánh rừng dẻ ở các xã: Trùng Khánh, Đàm Thủy, Đình Phong bắt đầu vào mùa quả chín. Không khí nơi đây dường như cũng trở nên đặc quánh hơn bởi mùi thơm ngai ngái của những quả dẻ lúc lỉu trên cành, một mùi hương mộc mạc mà quyến rũ đến lạ kỳ. Hạt dẻ ở các xã phía Đông của tỉnh (thường gọi là dẻ Trùng Khánh) có vẻ ngoài rất riêng, một bản sắc không thể nhầm lẫn. Nó không to, tròn như những loại dẻ nơi khác. Vỏ ngoài chi chít gai nhọn, cứng cáp, khi quả chín, lớp vỏ gai sẽ tự tách mình, để lộ từ 3 - 4 hạt, lớp vỏ lụa màu nâu sậm, phủ một lớp lông tơ mềm mại như nhung. Chỉ cần bóc lớp vỏ cứng là đã thấy phần nhân màu vàng, căng mẩy. Người dân ở đây thường bảo hạt dẻ ngon nhất là vào đầu mùa. Khi ấy, hạt dẻ vừa dẻo, vừa có vị ngọt bùi rất đặc trưng. Hạt dẻ đem rang lên, mùi thơm lan tỏa khắp gian nhà, len vào từng góc bếp. Khi ăn cảm nhận vị bùi, ngọt nhẹ, mới thấy hết được sự tinh túy mà đất trời, sông suối đã chắt chiu, hội tụ cho vùng đất này.

Ở xóm Bản Khấy, xã Đàm Thủy có lẽ không ai hiểu và gắn bó với cây dẻ bằng ông Nông Văn Huân. Người đàn ông đã ở tuổi ngoài lục tuần này là chủ nhân của hơn 300 gốc dẻ, nhiều nhất trong xã. Tại mỗi khu vườn của ông dù không rộng lớn, nhưng đã trở thành một "bảo tàng sống" với hơn chục cây dẻ cổ thụ, thân cây hai người ôm không xuể. Một trong số đó đã được vinh danh là Cây Di sản Việt Nam. “Mấy cây này có từ đời cha ông tôi để lại, tính ra cũng hơn trăm tuổi rồi”, ông Huân tự hào chỉ vào một gốc dẻ sần sùi, rêu phong, hằn lên dấu vết của thời gian. Cây dẻ này lạ lắm, nó giống như người già trong bản vậy, càng già càng quý, càng nhiều kinh nghiệm. Cây tơ phải mất cả chục năm mới cho quả, nhưng những cây cổ thụ này năm nào cũng sai quả, quả to, hạt mẩy, ăn ngọt hơn hẳn.

Các xã: Trùng Khánh, Đàm Thủy, Đình Phong hiện có khoảng 570 ha dẻ cho thu hoạch.

Các xã: Trùng Khánh, Đàm Thủy, Đình Phong hiện có khoảng 570 ha dẻ cho thu hoạch.

Với ông Huân và gia đình, vườn dẻ không chỉ là nguồn sống mà còn là ký ức, là gia tài của tổ tiên để lại. Mỗi năm, chỉ riêng tiền bán hạt dẻ, gia đình ông đã có thu nhập ổn định từ 80 - 100 triệu đồng. Có những năm được mùa, được giá, con số ấy lên đến gần 200 triệu đồng. Điều đặc biệt là ông không phải vất vả mang đi bán. Cứ đến mùa, khách du lịch từ khắp nơi, rồi các cơ quan, đơn vị, địa phương lại tìm đến tận nhà đặt mua làm quà. Hạt dẻ Trùng Khánh nổi tiếng, không có đủ bán, ông Huân chia sẻ. Năm nay mới đầu mùa, tôi hái được hơn 50 kg mà khách đã đặt. Giá tại nhà 150.000 đồng/kg.

Cũng như ông Huân, xã Đàm Thủy có 525 hộ dân đang vươn lên nhờ cây dẻ. Nó không chỉ là thứ quà quen thuộc trong mỗi gia đình, mà đã thực sự trở thành cây làm giàu, giúp nhiều người thoát khỏi cái nghèo. Tuy nhiên, để có được vị thế như ngày nay, cây dẻ Trùng Khánh đã trải qua một hành trình đầy thăng trầm. Lịch sử ghi nhận, từ đầu thế kỷ XX, cây dẻ là cây ăn quả thế mạnh của vùng. Vào thời kỳ những năm 1960 - 1970, diện tích dẻ toàn vùng lên tới 1.600 ha, do các lâm trường và hợp tác xã quản lý. Đó là thời kỳ mà những cánh rừng dẻ bạt ngàn, hứa hẹn một tương lai trù phú. Thế nhưng, sau đó là một giai đoạn suy thoái kéo dài. Do nhiều nguyên nhân, diện tích dẻ cứ thu hẹp dần. Đến cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, dù được các dự án trồng rừng hỗ trợ phát triển trở lại, nhưng tình hình vẫn không khả quan. Nhiều diện tích dẻ bị thoái hóa do cây giống kém chất lượng, kỹ thuật trồng và chăm sóc không đảm bảo. Đến năm 2016, toàn huyện Trùng Khánh (cũ) chỉ còn 242,5 ha dẻ cho thu hoạch - một con số đáng báo động.

Những năm gần đây, khi giá trị của hạt dẻ được khẳng định trên thị trường, cùng với sự vào cuộc của chính quyền và các chính sách hỗ trợ, cây dẻ mới thực sự hồi sinh mạnh mẽ. Nhưng ngay cả khi đã hồi sinh, một nghịch lý lớn vẫn tồn tại.

Trăn trở phía sau mùa quả ngọt

Những câu chuyện trồng dẻ thành công, có thu nhập cao từ người dân đã thắp lên niềm hy vọng. Thế nhưng, đằng sau vị ngọt bùi của hạt dẻ và niềm vui của một bộ phận nông dân, là một thực tế đầy trăn trở: hạt dẻ Trùng Khánh luôn trong tình trạng “cung không đủ cầu”. Du khách đến Cao Bằng dịp mùa thu, ai cũng muốn mua hạt dẻ về làm quà. Các nhà hàng, khách sạn lớn cũng săn lùng loại quả đặc sản này. Nhu cầu lớn, nhưng sản lượng lại quá ít. Theo thống kê, toàn vùng trọng điểm 3 xã phía Đông của tỉnh hiện có khoảng 700 ha dẻ, nhưng diện tích cho thu hoạch chỉ khoảng 570 ha. Với năng suất trung bình chỉ đạt 2,5 tấn/ha, tổng sản lượng mỗi năm chỉ khoảng hơn 1.400 tấn, một con số quá khiêm tốn so với tiềm năng.

Trồng giống dẻ ghép, chăm sóc đúng kỹ thuật sẽ cho năng suất đạt 20 - 25 tạ hạt dẻ/ha, cao hơn so với trồng dẻ ươm hạt.

Trồng giống dẻ ghép, chăm sóc đúng kỹ thuật sẽ cho năng suất đạt 20 - 25 tạ hạt dẻ/ha, cao hơn so với trồng dẻ ươm hạt.

Phó trưởng Phòng Kinh tế xã Đàm Thủy Nông Thị Ngân, người có nhiều năm trăn trở với cây dẻ đã chỉ ra một loạt "nút thắt" cần tháo gỡ. Nguyên nhân thì nhiều, đầu tiên là ý thức của người dân. Nhiều người vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Tiếp đến là khoa học kỹ thuật, mặc dù được tập huấn, nhưng nhiều hộ chỉ cử một người học tập, về không phổ biến lại, nên chủ yếu vẫn canh tác theo kinh nghiệm truyền thống, phó mặc cho trời đất. Cây trồng xong cứ để tự nhiên, không bón phân, không tỉa cành, tạo tán, nên năng suất rất thấp. Một số nguyên nhân khác là địa hình phức tạp, manh mún, gây khó khăn cho việc chăm sóc và thu hoạch. Nhiều người dân vẫn giữ thói quen tự ươm giống từ hạt. Phương pháp này tuy giữ được nguồn gen bản địa, cây có tuổi thọ cao, nhưng lại có nhược điểm là tỷ lệ nảy mầm thấp, cây lâu cho quả và chất lượng không đồng đều. Thêm vào đó, dù giá trị kinh tế đã được khẳng định, nhưng việc đầu tư trồng mới cây dẻ đòi hỏi một nguồn vốn không nhỏ và sự kiên trì trong nhiều năm. Điều này trở thành rào cản đối với nhiều hộ nghèo, cận nghèo.

Vị ngọt của hạt dẻ Trùng Khánh đã nức tiếng gần xa, nhưng đằng sau đó là một nghịch lý đầy trăn trở: một đặc sản luôn trong tình trạng “cháy hàng”, trong khi đời sống một bộ phận người nông dân vẫn còn nhiều khó khăn. Bài toán về sản lượng, về kỹ thuật, về vốn và tập quán sản xuất đã trở thành những rào cản lớn, kìm hãm sự phát triển của cây trồng mũi nhọn.

Trước những thách thức đó, một cuộc chuyển mình đang diễn ra, bắt đầu từ những đồng vốn chính sách, những vườn ươm công nghệ cao và sự thay đổi trong tư duy canh tác của người dân. Làm thế nào để giải quyết những nút thắt này, để biến tiềm năng thành một ngành kinh tế mũi nhọn, để hạt dẻ không chỉ là niềm tự hào mà còn là sự giàu có bền vững của người dân các xã phía Bắc của tỉnh.

Kỳ cuối: Phát triển từ chính sách đồng bộ

Hoàng Ngơi

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/nang-tam-cay-de-tro-thanh-cay-lam-giau-ky-1-3181966.html