Nền tảng vững chắc bước vào kỷ nguyên mới

80 năm là một dấu mốc lịch sử đặc biệt, để cả nước và mỗi người Việt Nam nhìn lại chặng đường đã đi qua, từ chiến tranh đến hòa bình, từ chia cắt đến thống nhất, từ bao vây cấm vận đến hội nhập quốc tế.

Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam nay trở thành nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất khu vực Đông Nam Á (Trong ảnh: dây chuyền lắp ráp xe điện của Vinfast).

Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam nay trở thành nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất khu vực Đông Nam Á (Trong ảnh: dây chuyền lắp ráp xe điện của Vinfast).

Từ “ôn cố, tri tân”

Thành tựu kinh tế hiện nay sau 40 năm Đổi mới và 80 năm giành độc lập có ý nghĩa rất to lớn. Chúng ta đang sở hữu một chặng đường phát triển rất đặc biệt: 30 năm chiến đấu, hy sinh, 40 năm đổi mới và xây dựng kinh tế. Đó không chỉ là con số kỷ niệm, mà là minh chứng cho sức sống, nghị lực và khát vọng vươn lên của dân tộc.

Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam nay trở thành nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất khu vực Đông Nam Á. Năm 2024, chúng ta đứng đầu Đông Nam Á về tăng trưởng GDP, xuất khẩu đạt kỷ lục ở nhiều lĩnh vực - từ nông sản xanh, thủy sản chế biến đến điện tử, dệt may. Việt Nam cũng đang khai thác mạnh mẽ cơ hội từ chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Một lợi thế khác là dân số vàng, với hơn 50 triệu người trong độ tuổi lao động, trẻ, sáng tạo, giàu khát vọng. Khi lực lượng này kết hợp với quyết tâm cải cách của thế hệ lãnh đạo mới, đó sẽ là động lực vô giá cho một kỷ nguyên phát triển. Song, lợi thế lao động trẻ, giá rẻ đang bị xói mòn trong thời đại người máy, trí tuệ nhân tạo.

Tôi nhớ trong Đổi mới 1986, không khí khi ấy rất đặc biệt. Đất nước khi ấy khủng hoảng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã dũng cảm nói thẳng và viết loạt bài “Những việc cần làm ngay”, để chỉ ra những căn bệnh quan liêu, lãng phí, trì trệ trong bộ máy.

Ông và nhiều lãnh đạo khác sống giản dị, liêm khiết, tạo niềm tin để cả hệ thống chính trị đồng lòng đổi mới. Tinh thần đó sau này được tái hiện rõ nhất trong quá trình soạn thảo và thực thi Luật Doanh nghiệp (DN) năm 1999.

Trước đó, để lập một DN, người dân phải chạy đủ 35 chữ ký, 32 con dấu, mất từ 6 tháng đến cả năm, kèm theo nhiều chi phí “bôi trơn”. Việc kinh doanh chịu trói buộc bởi hàng trăm loại “giấy phép con”, từ mở tiệm đánh máy đến vẽ truyền thần đều phải xin phép.

Khi Luật DN 1999 được ban hành, Thủ tướng Phan Văn Khải đã lập Tổ công tác thi hành Luật, trực tiếp chỉ đạo rà soát và cắt bỏ hơn 500 giấy phép bất hợp lý. Tôi còn nhớ ông Khải nói rất ngắn gọn: “Cái nào không cần, bỏ. Cái nào làm khó dân, phải cắt”.

Quyết định ấy đã mở đường cho hàng vạn DN tư nhân ra đời, tạo nên làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ đầu những năm 2000. Bài học quan trọng nhất rút ra: muốn giải phóng năng lực sản xuất, phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dám thay đổi thể chế, tháo bỏ cơ chế xin - cho và trao lại quyền kinh doanh cho dân.

Đến vững niềm tin và kiến tạo tương lai

Còn nhớ những năm đầu Đổi mới, khu vực tư nhân bị coi là “phe phẩy”, bị hạn chế đủ bề. Chỉ đến khi Luật DN ra đời năm năm 1999, quyền tự do kinh doanh mới được thừa nhận, tạo làn sóng DN tư nhân phát triển.

Tuy nhiên, khó khăn chưa bao giờ hết. Thể chế còn thiếu minh bạch, chi phí không chính thức còn cao và phổ biến, nhiều cán bộ e ngại trách nhiệm. DN tư nhân chính thức chỉ chiếm khoảng 12% GDP, trong khi kinh tế hộ gia đình thuộc loại hình kinh tế phi chính thức chiếm 32% GDP.

Nhưng không thể phủ nhận rằng, chính khu vực tư nhân đã tạo nhiều việc làm nhất, đóng góp lớn cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Hiện nay cả nước có gần 930.000 DN, trong đó 98% là DN nhỏ và vừa, cùng 5,2 triệu hộ kinh doanh.

Khu vực tư nhân đóng góp khoảng 46% GDP, 30% ngân sách, và tạo ra tới 85% việc làm. Những con số ấy cho thấy họ hoàn toàn xứng đáng được coi là động lực quan trọng nhất như Nghị quyết 68 của Đảng hiện nay xác định. Đó là cả một hành trình gian truân.

Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để nhân đôi số DN hiện có, để đáp ứng nhu cầu việc làm của 101 triệu dân. Muốn vậy, Nhà nước phải tiếp tục cải cách thể chế, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch, giảm chi phí. Người dân Việt Nam không thiếu khát vọng và sáng tạo, họ chỉ cần sự yên tâm để đầu tư lâu dài.

Các nhà lãnh đạo hiện nay đã xác định “thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”, và coi “cải cách thể chế là đột phá của đột phá”. Đó là tinh thần rất đúng và kịp thời. Nhưng để biến khẩu hiệu thành hiện thực, phải nhìn thẳng vào thực trạng.

Nhiều DN vẫn phàn nàn thủ tục rườm rà, bị yêu cầu hồ sơ không cần thiết, mất thời gian và cơ hội. Tham nhũng vặt và chi phí không chính thức vẫn còn phổ biến. Tâm lý e ngại trách nhiệm khiến không ít cán bộ “đùn đẩy”, kéo dài thời gian phê duyệt.

Tôi cho rằng đã đến lúc phải tiến hành một cuộc cải cách mạnh mẽ hơn nữa, thực hiện công khai minh bạch, thực hiện kinh tế số, DN số, Chính phủ điện tử. Đổi mới lần 1 đã giải phóng năng lực sản xuất. “Đổi mới lần 2” này phải tạo dựng một môi trường minh bạch, công bằng, nơi DN yên tâm đầu tư và phát triển.

Điều này đòi hỏi đổi mới toàn diện cả về bộ máy, luật pháp và cơ chế quản lý. Lãnh đạo cao nhất phải đứng ra chỉ đạo, có bộ máy chuyên trách, làm quyết liệt đến cùng, chứ không thể trông chờ các bộ ngành tự rà soát rồi giữ lại quyền lợi của mình.

Hiện nay Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 GDP tăng trưởng bình quân 10%/năm, thu nhập đầu người đạt 8.500 USD, và đến năm 2045 khoảng 18.000 USD, đây là khát vọng rất lớn, phản ánh ý chí mạnh mẽ muốn đưa đất nước bứt phá. Nhưng cũng phải nói thẳng, thách thức là vô cùng to lớn.

Trong 40 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của Việt Nam chỉ đạt khoảng 6,5-7%/năm. Để đạt 10%, chúng ta cần một động lực hoàn toàn mới. Và đặc biệt khu vực tư nhân phải thực sự vươn lên, chiếm tỷ trọng lớn hơn trong GDP, trở thành động lực chủ đạo bên cạnh khu vực FDI và kinh tế nhà nước.

Tăng trưởng 10% chỉ có ý nghĩa khi đời sống đa số người dân được cải thiện, bất bình đẳng được thu hẹp và môi trường được bảo vệ. Nói cách khác, mục tiêu này vừa là thách thức, vừa là cam kết: nếu đủ quyết tâm cải cách, dám nhìn thẳng vào sự thật và hành động vì lợi ích lâu dài của dân tộc, khát vọng ấy hoàn toàn có thể trở thành hiện thực.

Nhìn lại 80 năm lịch sử, 40 năm Đổi mới, chúng ta có quyền tự hào. Nhưng để thực sự bứt phá trong kỷ nguyên mới, cần một quyết tâm chính trị mạnh mẽ, một cải cách thể chế đủ mạnh. Chỉ có như thế, mới đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh và bền vững.

TS. LÊ ĐĂNG DOANH, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng

Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/nen-tang-vung-chac-buoc-vao-ky-nguyen-moi-post125560.html