Ngân hàng chịu áp lực khi chạm trần tăng trưởng tín dụng
Tín dụng được dự báo duy trì cao, nhưng áp lực huy động và lãi suất tăng khiến việc cân đối vốn ngày càng khó khăn khi nhiều ngân hàng đã gần chạm hạn mức.
Tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức cao
Theo báo cáo mới đây của Bộ Tài chính, tính đến 28/10/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã tăng 14,77% so với cuối năm 2024.
Trong cuộc họp báo thường kỳ quý III/2025, Ngân hàng Nhà nước dự báo tăng trưởng tín dụng cả năm có thể chạm mức 19-20%, phản ánh nhu cầu vốn trong nền kinh tế vẫn lớn và khả năng hấp thụ vốn được cải thiện rõ rệt.
Đà tăng này được xem là tín hiệu tích cực nhưng cũng đặt ra thách thức về thanh khoản và yêu cầu kiểm soát chất lượng tín dụng.
Cụ thể, trong nhóm ngân hàng quốc doanh, BIDV tiếp tục dẫn đầu với dư nợ hơn 2,23 triệu tỷ đồng, tăng 8,8% so với cuối năm 2024, tương ứng tăng hơn 180.000 tỷ đồng. Vietinbank sở hữu gần hai triệu tỷ đồng dư nợ, tăng 15,6%, là mức cao nhất trong khối này. Vietcombank đạt 1,63 triệu tỷ đồng dư nợ, tăng 12,5%.
Ở nhóm ngân hàng tư nhân, MB đang đứng đầu với dư nợ cho vay khách hàng đạt 931.500 tỷ đồng, tăng gần 20%, qua đó củng cố vị trí thứ tư toàn hệ thống. VPBank giữ vị trí thứ năm với dư nợ gần 900.000 tỷ đồng và gây chú ý khi đạt mức tăng trưởng tín dụng tới 29,4% tính đến hết quý III/2025 nhờ sự cộng hưởng từ cả ngân hàng mẹ và các công ty thành viên.
Nhiều ngân hàng ghi nhận mức tăng trưởng cao hơn tốc độ chung của toàn nền kinh tế. Điểm nhấn đến từ các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ. NCB dẫn đầu với mức tăng tới 33,4%, vượt xa mặt bằng chung và hoàn thành 103% kế hoạch năm nhờ quy mô tín dụng khiêm tốn cùng chiến lược mở rộng mạnh mẽ.
Các ngân hàng năng động khác như Techcombank tăng 21,4%, MB tăng 19,9%, TPBank tăng 18,3% và NamABank tăng 18,1% cũng ghi nhận tốc độ mở rộng tín dụng đáng kể.
Nhóm ngân hàng tầm trung duy trì đà tăng trưởng tương đối đồng đều trong khoảng 14% đến 17%, bao gồm SHB tăng 16,9%, MSB tăng 16,1%, ACB tăng 15,2% và VIB tăng 15%.
Cơ hội song hành thách thức
Tăng trưởng tín dụng cao được dự báo tiếp tục duy trì trong các năm tới và góp phần hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số.
Tuy nhiên, áp lực huy động vốn và mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng khiến bài toán cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng tín dụng và chi phí vốn trở nên thách thức hơn, nhất là khi nhiều ngân hàng đã tiến sát hạn mức được Ngân hàng Nhà nước cấp.
Trong ngắn hạn, đặc biệt giai đoạn cuối năm, lãi suất nhiều khả năng nhích nhẹ do rủi ro tỷ giá và áp lực thanh khoản, trong khi “room” tín dụng toàn hệ thống được giới hạn khoảng 16% từ đầu năm.
Sang năm 2026, các ngân hàng kỳ vọng việc bỏ room tín dụng sẽ giúp họ chủ động hơn trong xây dựng kế hoạch tăng trưởng hàng năm. Việc bỏ room tín dụng được kỳ vọng sẽ giải phóng dòng vốn, giúp ngân hàng vượt qua rào cản hết hạn mức để bơm mạnh vốn ra thị trường.
Giới phân tích đánh giá đây sẽ là bước đi cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế, đồng thời nâng cao tính cạnh tranh và minh bạch. Ngân hàng buộc phải cạnh tranh dựa trên năng lực quản trị rủi ro và chất lượng dịch vụ thay vì phụ thuộc vào hạn mức.
Điều này góp phần giảm cơ chế xin cho và tạo dựng môi trường tài chính công bằng hơn. Việc chuyển sang cơ chế thị trường kết hợp tiêu chuẩn quốc tế như Basel được xem là bước tiến quan trọng trong quá trình hiện đại hóa hệ thống tài chính Việt Nam.
Tại một hội thảo gần đây, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu chính sách tại VinUni cho rằng để đạt tăng trưởng kinh tế cần rất nhiều yếu tố và vốn là yếu tố vô cùng quan trọng.
Ông phân tích rằng mục tiêu tăng trưởng 10% mỗi năm đến 2030 tương ứng mức tăng trưởng danh nghĩa khoảng 13% nếu tính thêm 3% lạm phát. Để đạt được mức này, tăng trưởng tín dụng thông thường phải cao hơn tăng trưởng GDP danh nghĩa khoảng 3 điểm phần trăm.
Đây là mức an toàn và nếu giảm xuống còn 2 điểm phần trăm thì tín dụng cần đạt khoảng 15% mỗi năm từ nay đến 2030. Như vậy trong 5 năm tới, quy mô tín dụng sẽ phải tăng gấp đôi và kéo theo quy mô tài sản ngân hàng, vốn chủ sở hữu cùng các yếu tố liên quan tăng tương ứng.
Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam, nhận định tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam đang ở mức cao khoảng 134%. Điều này cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của ngân hàng trong bảo đảm nguồn vốn cho nền kinh tế.
Trong ngắn hạn, động lực cho vay chủ yếu đến từ hạ tầng và năng lượng, những lĩnh vực có quy mô đầu tư khiêm tốn trong các năm qua nhưng đang bước vào giai đoạn tăng tốc.
Theo tính toán của Bộ Tài chính, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 10%, tổng vốn đầu tư cần khoảng 1.400 tỷ USD trong 5 năm tới, tương đương bình quân 280 tỷ USD mỗi năm. Trong số này, vốn FDI chỉ đóng góp khoảng 24 đến 30 tỷ USD, phần còn lại hơn 250 tỷ USD phải đến từ khu vực trong nước bao gồm hệ thống tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên, theo thông tin từ Bloomberg, Fitch Ratings đã cảnh báo tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh của các ngân hàng Việt Nam đang khiến rủi ro tích tụ và có thể tăng mạnh hơn khi chính phủ loại bỏ hệ thống hạn mức tín dụng lâu năm.
“Điều này sẽ làm tăng tốc tín dụng, hiện đã rất cao và đồng thời đòn bẩy tài chính, vốn cũng đã ở mức cao” Willie Tanoto, Giám đốc cấp cao nhóm tổ chức tài chính châu Á Thái Bình Dương của Fitch, nhận định. Đồng thời ông cho biết thêm “trong 6 đến 12 tháng qua, tôi lo ngại hơn rất nhiều so với năm năm trước.”
Trước đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng xây dựng lộ trình loại bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm từ năm 2026 nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm nay và 10% mỗi năm trong 5 năm tới.
Theo Ngân hàng Thế giới, tín dụng tăng 18,1% so với cùng kỳ trong sáu tháng đầu năm. Ngân hàng Nhà nước cho biết tổng tín dụng có thể tăng 19% đến 20% trong năm 2025. Fitch dự báo tăng trưởng tín dụng khoảng 18% trong năm tới ngay cả khi không điều chỉnh chính sách hạn mức.
Tốc độ tăng tín dụng cao đã giúp Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới với mức tăng 8,2% trong quý III so với cùng kỳ. Tuy nhiên, theo ông Tanoto, tăng trưởng tín dụng nhiều năm qua đã vượt tốc độ tăng GDP và quy mô tín dụng có thể đạt 145% GDP vào cuối tháng 12.
“Mức đòn bẩy này rất bất thường đối với một thị trường ở giai đoạn phát triển như Việt Nam và với thu nhập bình quân đầu người hiện tại,” ông cho biết. Ông cũng lưu ý mức đòn bẩy cao làm tăng tính dễ tổn thương của hệ thống dù rủi ro chưa xuất hiện trong ngắn hạn.
Dù vậy, ông Tanoto khẳng định thế mạnh của Việt Nam nằm ở triển vọng tăng trưởng trung hạn vững chắc, mức nợ thấp hơn các nước cùng xếp hạng và cấu trúc nợ nước ngoài thuận lợi.














