Ngân hàng tăng tốc củng cố vốn cuối năm
Những tháng cuối năm 2025, làn sóng tăng vốn điều lệ lan rộng trong toàn hệ thống ngân hàng, từ các 'ông lớn' quốc doanh đến ngân hàng thương mại cổ phần.

Làn sóng tăng vốn lan rộng
Quý IV-2025, thị trường ghi nhận dày đặc thông tin về các kế hoạch tăng vốn điều lệ (VĐL) với quy mô lớn như VietinBank cho biết đã nhận được công văn của NHNN chấp thuận chủ trương tăng VĐL từ 53.700 tỷ đồng lên gần 77.670 tỷ đồng, thông qua phát hành cổ phiếu để trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại của các năm 2021, 2022 và giai đoạn 2009-2016.
Theo đó, NH dự kiến sẽ phát hành gần 2,4 tỷ cổ phiếu để trả cổ tức bằng cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ phát hành 44,64% trong quý IV-2025 và quý I-2026. Nếu hoàn tất, đây sẽ là một trong những đợt tăng vốn lớn nhất từ trước đến nay của một NHTM có vốn nhà nước.
Song song đó, khối NHTMCP cũng đồng loạt đẩy mạnh kế hoạch tăng vốn. Cuối tháng 10, SHB công bố phương án tăng VĐL thêm 7.500 tỷ đồng, nâng vốn lên hơn 53.400 tỷ đồng trong năm 2025. Phương án bao gồm phát hành hơn 459 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, 200 triệu cổ phiếu phát hành riêng lẻ và hơn 90 triệu cổ phiếu ESOP.
HDBank cũng mới công bố kế hoạch tăng VĐL khoảng 30% thông qua hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu, dự kiến tăng vốn từ 38.594 tỷ đồng lên hơn 50.172 tỷ đồng.
Cuộc đua tăng vốn cũng lan sang nhóm NH quy mô nhỏ. Chẳng hạn, Saigonbank thông báo ngày 18-12 là ngày đăng ký cuối cùng để thực hiện phát hành cổ phiếu trả cổ tức. NH dự kiến phát hành hơn 22 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, tỷ lệ 6,5%, từ nguồn lợi nhuận sau thuế năm 2024 và lợi nhuận lũy kế chưa phân phối, qua đó tăng VĐL từ 3.388 tỷ đồng lên 3.608 tỷ đồng.
Trước đó, hồi tháng 10, VietABank cũng được NHNN chấp thuận tăng VĐL đợt hai thêm hơn 3.330 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu và cán bộ nhân viên (ESOP), nâng VĐL từ 8.164 tỷ đồng lên 11.495 tỷ đồng.
“Cú hích” từ Basel III
Một trong những nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy làn sóng tăng vốn là áp lực thanh khoản gia tăng trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng mạnh, trong khi huy động vốn từ thị trường 1 không theo kịp. Theo các công ty chứng khoán, tăng trưởng tín dụng năm 2025 ở mức cao đã khiến tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) của nhiều NH tiến sát trần quy định.
Để bù đắp, các NH đã phải đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá, chứng chỉ tiền gửi và vay mượn trên thị trường liên NH. Điều này khiến lãi suất liên NH liên tục neo ở mức cao, đồng thời tạo áp lực lên biên lãi ròng (NIM).
Hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s Ratings nhận định, đà tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn tới, đặc biệt khi bước sang năm 2026, sẽ tiếp tục gây sức ép lên cấu trúc nguồn vốn của các NH Việt Nam, qua đó có thể thúc đẩy các NH gia tăng phát hành trái phiếu và các công cụ huy động vốn dài hạn.
Mặt khác, VĐL mỏng còn ảnh đến việc mở rộng tín dụng. Theo ông Nguyễn Tất Thái, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo, Thống kê - Ổn định tiền tệ và Tài chính (NHNN), quy mô tài chính của nhóm Big 4 vượt trội khi tổng tài sản đạt 9,36 triệu tỷ đồng, cung cấp hơn 43% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống nhưng VĐL chỉ chiếm 20% toàn hệ thống, trong khi các NHTMCP nắm 45% tổng tài sản nhưng sở hữu tới 65% VĐL.
Hệ quả, thị phần của khối Big 4 thu hẹp qua thời gian. Nếu năm 2004, nhóm này chiếm 74% thị phần huy động và 76% thị phần tín dụng, thì đến năm 2024 chỉ còn quanh mức 46%. “VĐL mỏng như “chiếc áo quá chật” đang đẩy nhóm này đến 3 hệ lụy lớn là: áp lực lên hệ số an toàn vốn (CAR), vướng trần tín dụng do vốn mỏng và hạn chế dư địa tài trợ cho các dự án trọng điểm quốc gia do quy định khống chế giới hạn cho vay trên vốn tự có”, ông Nguyễn Tất Thái phân tích.
Trong bối cảnh chịu nhiều áp lực đan xen, tăng VĐL được xem là giải pháp căn cơ nhằm cải thiện cấu trúc nguồn vốn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn và củng cố khả năng thanh khoản.
Thách thức chung
Câu chuyện vốn mỏng không chỉ là vấn đề riêng của nhóm Big 4, mà vẫn là thách thức chung của toàn hệ thống, nhất là khi tốc độ tăng trưởng tín dụng ngày càng nhanh.
Các số liệu thống kê cho thấy, hệ số an toàn vốn (CAR) toàn hệ thống hiện vào khoảng 12,5%, thấp hơn đáng kể so với mức bình quân ASEAN khoảng 20,5%. Trong khi đó, tài sản có rủi ro (RWA) tiếp tục gia tăng do tín dụng tăng mạnh và xu hướng cho vay vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán chưa giảm đáng kể.
Đặc biệt hiện nay, động lực mang tính cấu trúc quan trọng nhất thúc đẩy quá trình tăng vốn đến từ Thông tư 14/2025, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong lộ trình tiệm cận Basel III về quản lý an toàn vốn.
So với Thông tư 41/2016, khung quy định mới không chỉ giữ nguyên hệ số CAR 8%, mà còn phân tách rõ các tầng vốn với yêu cầu chặt chẽ hơn, bao gồm tỷ lệ vốn lõi cấp 1 (CET1) tối thiểu 4,5%, vốn cấp 1 tối thiểu 6%, đồng thời bổ sung bộ đệm bảo toàn vốn và bộ đệm vốn phản chu kỳ.
Đáng chú ý, Thông tư 14/2025 siết chặt định nghĩa và chất lượng vốn. Nhiều khoản mục như tài sản vô hình, tài sản thuế thu nhập hoãn lại, một phần vốn góp đầu tư, lợi thế thương mại hay quyền sử dụng đất vượt ngưỡng quy định sẽ bị khấu trừ khỏi vốn lõi cấp 1.
Điều này khiến “vốn công bố” phản ánh sát hơn năng lực hấp thụ rủi ro thực tế, song cũng làm CAR của không ít ngân hàng bị thu hẹp nếu không kịp thời bổ sung vốn mới.
Trước đó, theo quy định tại Thông tư 41/2016, yêu cầu về bộ đệm vốn chưa được đặt ra và không quy định mối liên hệ trực tiếp giữa việc chia cổ tức với trạng thái vốn tổng thể mà chỉ cần NH đáp ứng được mức vốn tối thiểu.
Với khung quy định mới, các NH không duy trì đủ bộ đệm vốn sẽ bị hạn chế khả năng chia cổ tức. Điều này nhằm khuyến khích các NH tích lũy vốn, nâng cao khả năng chống chịu trước biến động thị trường và các cú sốc kinh tế.
Theo VNDirect, CAR của hệ thống NH Việt Nam vẫn thấp hơn các nước khác do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tín dụng và các thị trường phát triển như Mỹ hay Anh đã áp dụng phương pháp IRB từ lâu, giúp phản ánh rủi ro thực tế sát hơn và qua đó giữ RWA ở mức thấp hơn.
Việc Thông tư 14 nâng cao yêu cầu về CAR và các bộ đệm dự phòng vốn sẽ tạo động lực mạnh mẽ, thúc đẩy các ngân hàng tăng vốn và được kỳ vọng sẽ khởi xướng một "cuộc đua tăng vốn" quy mô lớn trên hệ thống trong năm tới.
Thế nên hiện nay, tăng VĐL được đánh giá là trở thành mục tiêu sống còn của các NH. Việc tăng bộ đệm vốn cũng được xem là bước chuẩn bị tích cực cho lộ trình từng bước gỡ bỏ hạn mức tín dụng, khi cơ chế “room” dần được thay thế bằng khuôn khổ giám sát dựa trên rủi ro và thị trường.
Bởi khi đó, nếu thiếu các chốt chặn an toàn vĩ mô và bộ đệm vốn đủ dày, việc nới lỏng kiểm soát tín dụng có thể dẫn tới tăng trưởng nóng, gia tăng rủi ro hệ thống và áp lực lạm phát.
Ngược lại, những NH có nền vốn vững chắc sẽ có lợi thế rõ rệt trong việc mở rộng tín dụng bền vững, đặc biệt vào các lĩnh vực được khuyến khích như doanh nghiệp nhỏ và vừa, nông nghiệp, hạ tầng và công nghệ.
Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/ngan-hang-tang-toc-cung-co-von-cuoi-nam-post129653.html














