Ngành logistics Việt Nam trước nguy cơ tụt hạng
Xếp hạng chung logistics tại Việt Nam năm 2023 so với năm 2018 giảm từ hạng 39 xuống 43 do tác động của 3 tiêu chí: năng lực logistics, thời gian giao hàng và truy xuất.
Điều đáng lo ngại là trong bối cảnh xu hướng xanh phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, nguy cơ tụt hạng của ngành logistics Việt Nam sẽ gây khó cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp (DN).
Lệch pha cung - cầu
Chia sẻ về thực trạng ngành logistics Việt Nam, TS Tôn Thất Tú, chuyên gia tư vấn quốc tế, cho biết, vận tải đường bộ tại Việt Nam so với các phương tiện khác chiếm 74,4% tổng số lượng vận tải, kế đến là đường thủy nội địa chiếm hơn 19%; còn đường sắt, đường biển và hàng không chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn. Trong đó, nếu xét theo nhu cầu sử dụng phương tiện vận tải logistics của DN thì vận tải đường biển chiếm hơn 68%, tiếp đến là đường bộ, hàng không và các phương tiện khác.
Sự chênh lệch quá lớn giữa nhu cầu sử dụng loại hình logistics với thực tế đáp ứng đã khiến nhiều DN gặp khó, nhất là DN xuất khẩu. Bà Đỗ Thị Mỹ Lệ, Giám đốc Kinh doanh Công ty TNHH Trung Minh Thành, cho biết, nếu sử dụng vận tải bằng đường thủy, công ty phải chi phí 10%/tổng giá trị sản phẩm; nhưng nếu sử dụng vận tải đường hàng không thì chi phí sẽ gấp 2 lần tổng chi phí sản phẩm. Không dừng lại đó, vận tải đường biển phục vụ DN xuất khẩu cũng phụ thuộc hãng tàu nước ngoài.
Do vậy, nhiều năm qua, các DN gặp nhiều khó khăn, trễ thời gian giao hàng do phải chờ ghép container hoặc chờ chuyến do hãng tàu sắp xếp. Ông Hoàng Mạnh Cường, Giám đốc Công ty TNHH Vinaxo, phân tích, nông sản sấy dẻo của công ty chuyên xuất khẩu thị trường châu Âu và Hoa Kỳ.
Trung bình mỗi tháng công ty xuất khẩu khoảng 120 tấn thành phẩm trái cây sấy dẻo các loại. Tuy nhiên, 2 năm trở lại đây, do phải phụ thuộc hãng tàu biển quốc tế, chi phí logistics tăng lên hơn 10 lần. Chi phí quá cao đã làm suy giảm năng lực cạnh tranh của DN, thậm chí có DN phải bỏ một số thị trường châu Mỹ, châu Âu để quay về thị trường trong nước.
Nhiều ý kiến DN cũng chỉ ra rằng, ngành logistics Việt Nam đang tồn tại 4 hạn chế. Đầu tiên, ngành bị phân mảnh với nhiều DN nhỏ và vừa hoạt động độc lập, thiếu sự phối hợp và tiêu chuẩn hóa trong các dịch vụ nên làm tăng chi phí.
Hai là, nhiều nhà cung cấp dịch vụ logistics thiếu các năng lực công nghệ và chuyên môn cần thiết để cung cấp dịch vụ chất lượng cao, dẫn đến quản lý tồn kho kém và chậm giao hàng. Tiếp đó là, hạ tầng logistics không đầy đủ (Việt Nam đã đầu tư đáng kể vào phát triển hạ tầng logistics nhưng vẫn không đáp ứng điều kiện cần, chủ yếu tập trung mạng lưới đường bộ và đường sắt nên hiệu quả không cao).
Cuối cùng, thủ tục hải quan phức tạp và yêu cầu cấp phép nghiêm ngặt đã làm chậm sự phát triển của ngành logistics.
Đa dạng giải pháp để “xanh hóa”
Nhận xét về thị trường xuất khẩu, ông Dương Anh Đức, Phó Chủ tịch UBND TPHCM chia sẻ, hiện các sản phẩm nông sản và thực phẩm chế biến của Việt Nam đã có mặt tại trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Rất nhiều ngành trong lĩnh vực này đã đóng góp hơn 1 tỷ USD vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm, đặc biệt một số ngành như thủy sản đã đóng góp hơn 10 tỷ USD.
Không dừng lại đó, Việt Nam đã chủ động tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, những điều kiện giảm thuế xuất khẩu từ các thị trường trên thế giới đã và đang mở ra nhiều cơ hội hơn cho hàng hóa xuất khẩu của DN Việt Nam. Tuy vậy, để tận dụng cơ hội này, nhất thiết phải cải thiện năng lực của ngành logistics.
Về giải pháp, theo TS Tôn Thất Tú, trước hết, Chính phủ có thể đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt, sân bay và cảng biển để tạo điều kiện thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa trên cả nước. Cùng với đó, đơn giản hóa quy định và giảm thủ tục hành chính để khuyến khích sự cạnh tranh và đổi mới trong ngành.
Đồng thời, gia tăng đầu tư vào các chương trình phát triển kỹ năng cho người lao động vận tải hàng hóa, đặc biệt là trong các lĩnh vực quản lý chuỗi cung ứng và công nghệ thông tin. Điều này sẽ giúp cải thiện chất lượng nhân lực và hiệu quả của hoạt động vận tải hàng hóa.
Mặt khác, Chính phủ có thể khuyến khích sự áp dụng các công nghệ mới như tự động hóa kho, hệ thống quản lý vận tải và trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) để cải thiện hiệu quả và độ chính xác của hoạt động vận tải hàng hóa. Có thể thiết lập các đối tác với DN tư nhân để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ vận tải hàng hóa, nhất là những lĩnh vực mà đầu tư tư nhân bị giới hạn.
Theo ông Nguyễn Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư TPHCM (ITPC), xu hướng mới là logistics xanh - mắt xích quan trọng để “xanh hóa” chuỗi cung ứng thực phẩm. Năm 2023, trước bối cảnh người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng các sản phẩm thân thiện môi trường thì việc “xanh hóa” ngành logistics và ứng dụng logistics xanh là yêu cầu bắt buộc. Có nghĩa ngành logistics phải đa dạng các giải pháp “xanh hóa” trên các phương diện như vận tải xanh, bao bì xanh, kho bãi xanh, quản lý dữ liệu logistics xanh.
Như vậy, ngành logistics muốn phát triển mạnh hơn để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu hàng hóa thì trước tiên phải tự “tái cấu trúc”, như tối ưu hóa tuyến đường giao hàng, giảm số lượng xe tải trống hoặc chở hàng nửa chừng trên đường để tiết kiệm nhiên liệu và chi phí vận chuyển.
Đặc biệt, trong bối cảnh “xanh hóa” là yêu cầu bắt buộc, xuyên suốt từ sản xuất vận chuyển đến tiêu dùng, ngành logistics không thể đứng ngoài cuộc, nếu muốn tồn tại và hỗ trợ cho xuất khẩu.
Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/nganh-logistics-viet-nam-truoc-nguy-co-tut-hang-post105983.html