Ngành thủy sản Việt Nam tự tạo 'tấm vé thông hành' để chinh phục thị trường khó tính

Là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, thủy sản mang về hơn 9-10 tỷ USD mỗi năm (6 tháng đầu năm đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ) và tạo sinh kế cho hàng triệu lao động ven biển. Tuy nhiên, để duy trì và mở rộng thị phần trên những thị trường lớn, khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản, ngành thủy sản Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi cấp bách: phải minh bạch hóa chuỗi cung ứng và thực hiện chuyển đổi xanh, giảm phát thải và thân thiện môi trường.

Từ năm 2017, Liên minh châu Âu (EU) đã áp dụng cảnh báo “thẻ vàng” đối với thủy sản khai thác của Việt Nam do chưa kiểm soát được tình trạng khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU). Đến nay, thẻ vàng vẫn chưa được gỡ bỏ, tạo rào cản lớn cho xuất khẩu vào EU là một trong những thị trường cao cấp và giàu tiềm năng nhất.

Thẻ vàng IUU là lời nhắc nhở mạnh mẽ về việc minh bạch hóa chuỗi cung ứng

Thẻ vàng IUU là lời nhắc nhở mạnh mẽ về việc minh bạch hóa chuỗi cung ứng

Theo Cục Thủy sản, những tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản sang EU vẫn gặp khó do các yêu cầu nghiêm ngặt về chứng minh nguồn gốc hợp pháp, nhật ký điện tử, hệ thống giám sát hành trình (VMS). Việc thiếu đồng bộ dữ liệu, giám sát còn lỏng lẻo khiến nhiều lô hàng bị trả về hoặc phải tốn thêm chi phí kiểm tra, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt.

TS. Nguyễn Văn Nam, chuyên gia Phát triển bền vững nhận xét, thẻ vàng IUU là lời nhắc nhở mạnh mẽ về việc minh bạch hóa chuỗi cung ứng. Nếu không đầu tư nghiêm túc cho hệ thống giám sát, dữ liệu truy xuất nguồn gốc, Việt Nam có thể mất hẳn cơ hội ở thị trường EU vốn luôn chú trọng các sản phẩm bền vững và có trách nhiệm.

Không chỉ EU, nhiều thị trường lớn khác như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc cũng ngày càng siết chặt tiêu chuẩn “xanh hóa” đối với sản phẩm thủy sản nhập khẩu. Các tiêu chí như giảm phát thải carbon, sử dụng thức ăn bền vững, hạn chế kháng sinh, xử lý nước thải nuôi trồng đã trở thành bắt buộc thay vì tùy chọn.

Theo khảo sát của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) năm 2025, hơn 60% doanh nghiệp xuất khẩu cho biết khách hàng quốc tế đã đưa ra yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn xanh và chứng chỉ môi trường, bao gồm ASC (Aquaculture Stewardship Council), BAP (Best Aquaculture Practices), MSC (Marine Stewardship Council) hoặc Carbon Footprint.

Trong khi đó, thực tế sản xuất ở Việt Nam còn nhiều bất cập: quy mô nuôi nhỏ lẻ, manh mún; quy hoạch vùng nuôi chưa đảm bảo an toàn sinh học; nước thải chưa được xử lý triệt để; và sử dụng kháng sinh, hóa chất chưa kiểm soát chặt. Những yếu tố này không chỉ gây hại môi trường mà còn làm gia tăng rủi ro dịch bệnh, giảm năng suất và uy tín sản phẩm.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký VASEP chia sẻ, thị trường không đợi chúng ta kịp chuyển đổi. Doanh nghiệp nào làm trước thì giữ được khách hàng, ai chậm thì mất cơ hội. Chuyển đổi xanh không phải khẩu hiệu mà là điều kiện sống còn để cạnh tranh quốc tế.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức rõ chuyển đổi xanh là “tấm vé thông hành” không thể thiếu để duy trì và mở rộng xuất khẩu. Công ty CP Vĩnh Hoàn (Đồng Tháp) là doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lớn nhất Việt Nam đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng vùng nuôi đạt chuẩn ASC, sử dụng thức ăn bền vững, tuần hoàn nước thải và giảm phát thải carbon.

Theo báo cáo của Vĩnh Hoàn năm 2024 và những tháng đầu năm 2025, hơn 80% sản lượng xuất khẩu đạt chứng chỉ ASC hoặc BAP, giúp công ty giữ vững thị trường EU và mở rộng sang Mỹ, Nhật Bản. Ngoài ra, công ty còn phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn, tận dụng phế phẩm sản xuất collagen, gelatin, dầu cá, giúp gia tăng giá trị và giảm thải ra môi trường.

Khách hàng quốc tế đã đưa ra yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn xanh và chứng chỉ môi trường

Khách hàng quốc tế đã đưa ra yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn xanh và chứng chỉ môi trường

Tập đoàn Minh Phú cũng đang triển khai mô hình nuôi tôm tuần hoàn nước, biofloc và kết hợp điện mặt trời để giảm phát thải.

Bà Chu Thị Bình, Phó Tổng Giám đốc Minh Phú cho biết, mặc dù đầu tư ban đầu cao nhưng bù lại giúp tiết kiệm chi phí xử lý, đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng và bán được giá tốt hơn. Khách hàng Nhật Bản, Mỹ rất khắt khe về kháng sinh và phát thải. Nếu không thay đổi, họ sẵn sàng ngừng mua. Chúng tôi xác định đầu tư xanh là chiến lược dài hạn để giữ thị phần.

Các chuyên gia cho rằng để toàn ngành thủy sản Việt Nam “xanh hóa” và minh bạch hóa thành công, cần đồng bộ nhiều giải pháp đó là: Xây dựng và áp dụng nhật ký điện tử, hệ thống giám sát hành trình tàu cá VMS bắt buộc trên toàn đội tàu khai thác; Đầu tư công nghệ truy xuất nguồn gốc số hóa, đảm bảo minh bạch từ khai thác đến chế biến; Quy hoạch lại vùng nuôi tập trung, có hệ thống xử lý nước thải và an toàn sinh học; Khuyến khích áp dụng các chứng chỉ quốc tế như ASC, BAP, MSC; Phát triển nguồn thức ăn bền vững, giảm sử dụng kháng sinh và hóa chất; Hỗ trợ tín dụng xanh, ưu đãi lãi suất cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch; Tuyên truyền, đào tạo ngư dân và doanh nghiệp về yêu cầu thị trường và kỹ thuật sản xuất bền vững.

TS. Nguyễn Văn Nam nhấn mạnh, đây không phải việc của riêng doanh nghiệp mà cần cả hệ thống chính sách, quản lý và sự đồng thuận của người dân. Nếu làm tốt, Việt Nam không chỉ gỡ bỏ thẻ vàng mà còn nâng hạng thương hiệu thủy sản trên trường quốc tế.

Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thủy sản là một trong ba ngành xuất khẩu chủ lực (cùng với gạo và rau quả) có dư địa tăng trưởng lớn. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu kim ngạch 10 tỷ USD trong những năm tới, ngành buộc phải vượt qua rào cản kỹ thuật, yêu cầu xanh hóa ngày càng khắt khe. Chuyển đổi xanh không chỉ giúp Việt Nam giữ được thị trường khó tính mà còn đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, sinh kế lâu dài cho hàng triệu người dân ven biển. Đây chính là “tấm vé” để thủy sản Việt Nam không chỉ xuất khẩu nhiều hơn mà còn xuất khẩu thông minh và có trách nhiệm.

Đức Hiền

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/nganh-thuy-san-viet-nam-tu-tao-tam-ve-thong-hanh-de-chinh-phuc-thi-truong-kho-tinh-166754.html