Ngành Xây dựng đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
PGS.TS Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng cho biết, Bộ Xây dựng đã và đang triển khai nhiều hoạt động thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số toàn ngành.
PGS.TS Lê Trung Thành chia sẻ với Báo Xây dựng những hoạt động đồng bộ của Bộ Xây dựng về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST và CĐS ) quốc gia thời gian gần đây.

PGS.TS Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ môi trường và vật liệu xây dựng
Phân công rõ trách nhiệm, thời hạn và sản phẩm đầu ra cho các đơn vị
Thưa PGS.TS Lê Trung Thành, để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71/NQ-CP, Bộ Xây dựng đã chủ động triển khai các nhiệm vụ nào?
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia; Nghị quyết số 71/NQ-CP của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, Bộ Xây dựng đã ban hành đầy đủ hệ thống văn bản triển khai để chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trong toàn ngành, bao gồm: Nghị quyết của Đảng ủy Bộ Xây dựng về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS; Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 71/NQ-CP của Bộ; các đề án, chương trình, kế hoạch triển khai các nội dung về CĐS, chiến lược dữ liệu, an toàn thông tin đến năm 2030, phát triển đô thị thông minh, đường sắt tốc độ cao…
Công tác tổ chức triển khai thực hiện được chú trọng, bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả. Bộ đã phổ biến, triển khai áp dụng các nền tảng số quốc gia, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, đồng thời xây dựng danh sách đầu mối các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ để cập nhật tình hình thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến Nghị quyết số 57-NQ/TW và các Thông báo kết luận của Ban chỉ đạo Trung ương.
Ngày 8/9/2025, Bộ Xây dựng tổ chức Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71/NQ-CP nhằm quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, đồng thời phân công rõ trách nhiệm, thời hạn và sản phẩm đầu ra cho các đơn vị trực thuộc.
Tính đến hết tháng 11/2025, Bộ Xây dựng cơ bản không có nhiệm vụ chậm muộn, các nhiệm vụ đều đang được triển khai theo tiến độ.
Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia là một nhiệm vụ rất quan trọng. Trong thời gian qua, Bộ Xây dựng đã triển khai thực hiện nhiệm vụ này như thế nào, thưa Vụ trưởng?
Bộ Xây dựng đã chủ trì xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật Đường sắt số 96/2025/QH15 ngày 27/6/2025 trong kỳ họp thứ 9. Trong đó, bao gồm các cơ chế, chính sách mới được luật hóa để thúc đẩy, khuyến khích phát triển, chuyển giao khoa học công nghệ, công nghiệp đường sắt.
Bộ Xây dựng cũng chủ trì xây dựng, trình Quốc hội thông qua Nghị quyết số 201/2025/QH15 ngày 29/5/2025 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội. Trong đó, có bao gồm các cơ chế, chính sách chăm lo đời sống cho các chuyên gia để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; cho phép các doanh nghiệp được thuê nhà ở xã hội để cho chuyên gia, nhân lực chất lượng cao của mình ở.
Gần đây, Bộ Xây dựng tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 269/2025/NĐ-CP ngày 14/10/2025 quy định về phát triển đô thị thông minh. Trong đó, cơ chế, chính sách mới quy định rõ phát triển đô thị thông minh là một nội dung thuộc chương trình, kế hoạch phát triển KHCN, ĐMST và CĐS tại các địa phương.
Về lĩnh vực đường sắt đang là nội dung rất được quan tâm, Bộ Xây dựng đã nghiên cứu xây dựng dự thảo nghị định quy định về tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp nhà nước được giao nhiệm vụ hoặc tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt, với các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển và đã trình Chính phủ để xem xét ban hành…
Chủ động nghiên cứu, làm chủ và triển khai ứng dụng thành công nhiều công nghệ tiên tiến
Thời gian qua, các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp trong nước đã nghiên cứu, làm chủ và triển khai ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực xây dựng và giao thông vận tải như thế nào, thưa Vụ trưởng?
Các lĩnh vực xây dựng và giao thông vận tải đã được nhiều tổ chức KHCN, các doanh nghiệp trong ngành chủ động nghiên cứu, làm chủ và triển khai ứng dụng thành công nhiều công nghệ tiên tiến, hình thành năng lực công nghệ mang thương hiệu Việt Nam.
Cụ thể, trong lĩnh vực xây dựng công trình và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, các công nghệ hiện đại như công nghệ LiDAR gắn trên UAV, kết hợp GPS và toàn đạc điện tử, hệ thống quan trắc tự động thời gian thực phục vụ thi công và giám sát các công trình metro, đường sắt trên cao, công trình ngầm và nhà siêu cao tầng đã được triển khai thực hiện.
Nhiều doanh nghiệp làm chủ các phần mềm thiết kế, mô phỏng số. Nhờ vậy, công tác khảo sát - thiết kế ngày càng minh bạch, chính xác, giảm thiểu rủi ro và tạo nền tảng cho quản lý thi công, nghiệm thu, vận hành công trình theo hướng hiện đại, thông minh.
Hệ thống thu phí điện tử không dừng (ETC) đã được triển khai phủ khắp các tuyến cao tốc, giúp minh bạch hóa doanh thu, giảm ùn tắc giao thông. Các hệ thống giao thông thông minh (ITS); bãi đỗ xe thông minh; cân động WIM được đẩy mạnh nghiên cứu, thử nghiệm trên một số tuyến quốc lộ và đường địa phương…

Các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp ngành Xây dựng đã chủ động nghiên cứu, làm chủ và triển khai ứng dụng thành công nhiều công nghệ tiên tiến trong các lĩnh vực xây dựng và giao thông vận tải. (Ảnh minh họa)
Trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, các doanh nghiệp Việt Nam đã đảm nhận thiết kế, quản lý, thi công và kiểm tra chất lượng nhiều tòa nhà cao tầng quy mô lớn; đồng thời tiếp nhận, chuyển giao công nghệ từ các đối tác nước ngoài để chế tạo cấu kiện giàn không gian, kết cấu thép vượt nhịp lớn, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cao của các công trình hiện đại.
Trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, các dây chuyền xi măng đều sử dụng công nghệ phương pháp khô, lò quay, tháp trao đổi nhiệt bằng cyclon, máy nghiền đứng, máy nghiền có máy cán hỗ trợ...
Công nghệ sản xuất gạch ốp lát ceramic và granite gia công nguyên liệu theo phương pháp ướt, sấy phun tạo bột, tạo hình mộc trên các máy ép thủy lực, sấy nhanh bằng sấy đứng hoặc lò sấy thanh lăn đa tầng và nung nhanh bằng lò thanh lăn, sản xuất sản phẩm có kích thước lớn, có thể lên đến 1.600x3.200mm.
Kính xây dựng được sản xuất theo công nghệ kính nổi với các loại lò bể (tank furnace), lò điện hoặc lò đốt khí tự nhiên, nhiệt độ 1.500-1.600°C. Mức độ cơ giới hóa, tự động hóa cũng được nâng cao để sản xuất kính solar control, kính Low-E.
Ngành công nghiệp đóng tàu từng bước làm chủ nhiều công nghệ phức tạp trong đóng mới và sửa chữa tàu biển đặc chủng, cỡ lớn. Lĩnh vực đường sắt từng bước nội địa hóa nhiều hạng mục quan trọng.
Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam cũng đạt những bước tiến quan trọng trong chế tạo linh kiện, phụ tùng như khung vỏ, dây điện, ghế, kính an toàn, cầu chủ động, hộp số… góp phần nâng tỷ lệ nội địa hóa.
Trong công nghiệp hàng không, các nghiên cứu tập trung vào chế tạo phụ tùng thay thế nhập ngoại, trang thiết bị mặt đất và vật tư kỹ thuật.
Các công nghệ mới từng bước được áp dụng vào hoạt động quản lý nhà nước để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, phát triển đô thị thông minh, giao thông thông minh, thiết kế, xây dựng và vận hành công trình, phát triển phương tiện giao thông vận tải theo mô hình phát thải thấp và chuyển đổi năng lượng xanh.
Xin Vụ trưởng cho biết tiến độ triển khai hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến lĩnh vực xây dựng, giao thông; cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng?
Về nền tảng số, Bộ Xây dựng được giao triển khai hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với các thủ tục hành chính (TTHC) lĩnh vực xây dựng và giao thông đến cấp tỉnh, xã theo mô hình tập trung, tích hợp trên cổng dịch vụ công quốc gia, hoàn thành trước ngày 1/1/2026.
Tính đến thời điểm hiện tại, Bộ Xây dựng đã hoàn thành xây dựng hệ thống, đang thử nghiệm để xin ý kiến các địa phương, tổ chức đào tạo để triển khai chính thức.
Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng được giao hoàn thành 9 bộ cơ sở dữ liệu (CSDL) chuyên ngành và 1 CSDL quốc gia về hoạt động xây dựng. Đến nay, việc triển khai hệ thống thông tin, CSDL quốc gia về hoạt động xây dựng đã đạt khoảng 85% tiến độ tổng thể. Dự kiến, triển khai chính thức hệ thống trên cả nước từ ngày 1/1/2026.
Bộ Xây dựng cũng hoàn thành và đưa vào khai thác 6 bộ CSDL chuyên ngành trong các lĩnh vực: Kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt; đăng kiểm phương tiện; tàu biển, thuyền viên lĩnh vực hàng hải; năng lực hành nghề hoạt động xây dựng; kết cấu hạ tầng đường bộ; cấp nước sạch và thoát nước đô thị.
Ba bộ CSDL đang được triển khai thực hiện xây dựng khẩn trương thuộc các lĩnh vực: Nhà ở và thị trường bất động sản; kết cấu hạ tầng giao thông đường hàng không; phát triển đô thị.

Bộ Xây dựng đã hoàn thành hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với các TTHC lĩnh vực xây dựng và giao thông đến cấp tỉnh, xã theo mô hình tập trung, tích hợp trên cổng dịch vụ công quốc gia. (Ảnh minh họa)
Sẽ hình thành Trung tâm đổi mới sáng tạo
Thời gian tới, để thúc đẩy việc thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71/NQ-CP, Bộ Xây dựng tiếp tục tập trung những nhiệm vụ, giải pháp nào, thưa Vụ trưởng?
Sắp tới, Trung tâm ĐMST sẽ được thành lập để thúc đẩy các hoạt động kết nối KHCN, ĐMST và CĐS giữa các nhà khoa học và doanh nghiệp mạnh mẽ hơn, đưa các sản phẩm, kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn nhanh chóng.
Đồng thời, trí tuệ nhân tạo sẽ được đẩy mạnh ứng dụng trong hỗ trợ xây dựng, rà soát, hỏi đáp về KHCN, tiêu chuẩn, quy chuẩn và văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực Xây dựng và Giao thông vận tải.
Các công nghệ mới sẽ ngày càng được chú trọng áp dụng trong các hoạt động quản lý nhà nước để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành; phát triển đô thị thông minh, giao thông thông minh; thiết kế, xây dựng và vận hành công trình, phát triển phương tiện giao thông vận tải theo mô hình phát thải thấp và chuyển đổi năng lượng xanh; tiếp nhận chuyển giao công nghệ, quản lý khai thác và bảo trì đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị,…
Bộ Xây dựng cũng sẽ tập trung hoàn thành hệ thống thông tin, CSDL quốc gia về hoạt động xây dựng và 9 bộ CSDL chuyên ngành, đảm bảo dữ liệu "đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung".
Tái cấu trúc, đơn giản hóa và nâng cấp tốc độ xử lý các TTHC thuộc để cung cấp dịch vụ công trực tuyến thống nhất từ Trung ương đến địa phương, thúc đẩy các hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế xã hội, KHCN liên quan các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng.












