Nghệ An giảm nghèo bền vững và những mô hình sinh kế mới ở miền núi

Kết quả giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 cho thấy những chính sách giảm nghèo của Nghệ An đã đi đúng hướng. Năm 2025, thêm các mô hình sinh kế bền vững cho vùng miền núi.

Năm 2025, thêm các mô hình sinh kế bền vững cho vùng miền núi tỉnh Nghệ An.

Năm 2025, thêm các mô hình sinh kế bền vững cho vùng miền núi tỉnh Nghệ An.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường Nghệ An, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh cuối năm 2024 đã giảm 3,64% so với năm 2021, tương ứng mức bình quân 1,21%/năm. Vùng miền núi giảm 6,89% sau ba năm của giai đoạn 2021-2025 (bình quân 2,29%/năm), còn vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm tới 13,66%, vượt xa kế hoạch đề ra.

Năm cuối giai đoạn 2021-2025, Nghệ An đã có thêm nhiều mô hình sinh kế nông nghiệp, từ cây dược liệu, chăn nuôi gia súc tập trung đến nông nghiệp hữu cơ giúp hộ nghèo, cận nghèo có thêm việc làm và thu nhập ổn định. Đây là điểm nhấn quan trọng trong việc giảm thiếu hụt về thu nhập – một tiêu chí trọng tâm của chuẩn nghèo đa chiều.

5 NÚT THẮT TRONG HÀNH TRÌNH GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 2021-2025

Những thành quả trên của Nghệ An đến từ việc tỉnh triển khai đồng bộ bảy dự án lớn của chương trình, gồm: đầu tư hạ tầng; phát triển sinh kế; xây dựng mô hình chuỗi giá trị; cải thiện dinh dưỡng; hỗ trợ nhà ở; giáo dục nghề nghiệp, việc làm và giảm thiếu hụt dịch vụ xã hội. Hạ tầng thiết yếu ở các huyện miền núi như Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong hay Quỳ Châu được đầu tư mạnh, tạo nền tảng để đồng bào tiếp cận giáo dục, y tế, giao thông, nước sạch và thông tin.

Chăn nuôi đã giúp bà con Nghệ An vươn lên thoát nghèo.

Chăn nuôi đã giúp bà con Nghệ An vươn lên thoát nghèo.

Bên cạnh những kết quả tích cực trên, Nghệ An vẫn đối diện nhiều khó khăn có thể ảnh hưởng đến kết quả giảm nghèo bền vũng của cả năm 2025. Cũng như một số tỉnh thành khác, theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Nghệ An các khó khăn đó bao gồm năm nội dung sau:

Thứ nhất, tiến độ giải ngân còn chậm do thủ tục hành chính phức tạp khiến tỷ lệ giải ngân thấp hơn nhiều so với kế hoạch. Việc chậm giải ngân dẫn đến chậm triển khai các mô hình sản xuất, đào tạo nghề, và đặc biệt là đầu tư hạ tầng.

Thứ hai, năng lực cán bộ cấp cơ sở chưa đồng đều. Sau khi thực hiện mô hình chính quyền hai cấp, nhiều cán bộ xã mới được bố trí nên thiếu kinh nghiệm trong lập kế hoạch, tổng hợp báo cáo và triển khai dự án giảm nghèo.

Thứ ba, văn bản hướng dẫn nhiều và đôi khi chồng chéo. Điều này khiến việc áp dụng thống nhất tại cơ sở gặp không ít lúng túng, ảnh hưởng đến tiến độ giữa các địa phương.

Thứ tư, liên kết sản xuất còn hạn chế. Dẫn đến một số doanh nghiệp còn e ngại rủi ro khi tham gia mô hình liên kết với người dân, trong khi người dân lại có tâm lý dè dặt, chưa mạnh dạn thay đổi phương thức sản xuất.

Thứ năm, tâm lý trông chờ hỗ trợ vẫn còn.Một bộ phận nhỏ hộ nghèo chưa thực sự chủ động trong việc tiếp cận sinh kế mới, ảnh hưởng đến hiệu quả giảm nghèo.

Dù còn nhiều thách thức, tỉnh dự kiến tỷ lệ hộ nghèo năm 2025 sẽ giảm còn khoảng 4,64%, phấn đấu đạt mục tiêu giảm nửa số hộ nghèo so với đầu kỳ – như kế hoạch đề ra. Để đạt mốc này, việc kết hợp nguồn lực giữa ba chương trình mục tiêu quốc gia (giảm nghèo – nông thôn mới – phát triển dân tộc thiểu số) tiếp tục là giải pháp then chốt.

MÔ HÌNH KINH TẾ XANH MỞ LỐI THOÁT NGHÈO CHO VÙNG CAO

Nếu các dự án lớn mang tính hệ thống giúp giảm nghèo về hạ tầng, dịch vụ và kỹ năng, thì những mô hình sinh kế mới tại chỗ đang đóng vai trò quyết định trong nâng thu nhập bền vững. Một trong những mô hình tiêu biểu của nền kinh tế xanh là nghề đan bèo tây xuất khẩu ở xã Yên Na, huyện Tương Dương.

Ở Yên Na, nghề đan tre, nứa truyền thống từng là sinh kế quan trọng, nhưng dần mai một do thị trường tiêu dùng thay đổi. Để tạo sinh kế mới cho người dân, chính quyền xã đã kết nối với doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ ở Ninh Bình, đưa nghề đan lục bình về tận các bản để bà con học nghề và làm việc tại chỗ.

Sản phẩm mây tre đan của xã Yên Khê được nhiều khách hàng ưa chuộng.

Sản phẩm mây tre đan của xã Yên Khê được nhiều khách hàng ưa chuộng.

Trong thời gian ngắn, 5 bản đã hoàn thành lớp học nghề; riêng bản Văng Cuộm có gần 15 người trên 60 tuổi đăng ký học. Tay nghề truyền thống giúp bà con tiếp thu rất nhanh, chỉ cần vài giờ là có thể đan thành thạo những sản phẩm đầu tiên.

Kết quả mô hình này cho thấy công việc đan bèo tây mang lại nhiều lợi ích vượt trội: Thu nhập ổn định: bình quân 150.000 đồng/ngày, tương ứng 3–5 triệu đồng/tháng. Phù hợp mọi lứa tuổi, đặc biệt là người cao tuổi – nhóm thường khó tiếp cận việc làm.

Làm tại nhà, lúc nông nhàn, không yêu cầu giờ giấc cố định. Đảm bảo đầu ra, đó là: doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu và bao tiêu toàn bộ sản phẩm, không áp chỉ tiêu.

Sản phẩm thân thiện môi trường – phù hợp xu hướng tiêu dùng xanh của thị trường quốc tế.

Với kết quả khả quan, xã đặt mục tiêu nhân rộng nghề đan bèo tây đến toàn bộ 16 bản trong thời gian tới, biến đây thành sinh kế ổn định và bền vững cho cộng đồng vùng cao.

Nhìn chung, các mô hình sinh kế mới từ chính nội lực của cộng đồng – như nghề đan bèo tây ở Yên Na đã mở ra hướng đi bền vững hơn: tạo thu nhập tại chỗ, phù hợp văn hóa bản địa, và gắn với thị trường tiêu dùng xanh toàn cầu. Khi hạ tầng, dịch vụ xã hội và sinh kế cùng được cải thiện, mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” sẽ tiến gần hơn với thực tế.

Nghệ An đang cố gắng khắc phục những khó khăn hạn chế kể trên để chủ động đảm bảo mục tiêu giảm nghèo của cả giai đoạn 2021-2025.

Minh Hiếu

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/nghe-an-giam-ngheo-ben-vung-va-nhung-mo-hinh-sinh-ke-moi-o-mien-nui.htm