Nghe cựu binh kể chuyện cứu phi công Mỹ giữa Trường Sa
Đã 33 năm trôi qua, sự kiện cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 của Lữ đoàn 171 Hải quân anh hùng cứu 3 phi công Mỹ gặp nạn ở vùng biển Đá Lớn Trường Sa năm 1988 vẫn tươi mới trong ký ức của những cựu binh Hải quân sau bao năm gặp lại. 'Đó là lần cứu hộ lịch sử thấm đẫm tình người giữa biển khơi không bao giờ quên trong cuộc đời lính biển của tôi', Cựu binh Nguyễn Hữu Tuấn, nguyên máy trưởng tàu HQ-11 anh hùng bày tỏ trong niềm xúc động.
“Giải mã không độ” trong cuộc hội ngộ đặc biệt
Tôi gọi điện cho cựu binh Đại tá Trần Văn Giáo - nguyên máy phó của tàu HQ-11 anh hùng trong sự kiện cứu phi công Mỹ ở đảo Đá Lớn năm 1988. Từ đầu dây điện thoại, ông Giáo nói oang oang: “Được thôi, chuyện cứu phi công Mỹ thì dài lắm. Tôi luôn sẵn sàng”.
Sau cuộc hẹn ngắn ngủi qua điện thoại, những cựu binh của tàu HQ-11 anh hùng ngày ấy có mặt đông đủ tại nhà riêng của Thượng tá Hoàng Văn Thể - người thuyền trưởng 22 năm gắn bó với tàu săn ngầm 11. Cuộc hội ngộ đặc biệt sau nhiều năm sự kiện cứu phi công Mỹ đã lùi vào dĩ vãng. “Dẫu sự kiên đã hơn 1/3 thế kỷ, nhưng sao mà chúng tôi quên được. Có lẽ đó là những ngày hoa lửa đẹp nhất trong cuộc đời lính biển”- cựu binh Giáo nói, khi tôi hỏi ông có còn nhớ sự kiện cứu phi công Mỹ ở Trường Sa năm 1988?
Còn Thượng tá Hoàng Văn Thể thì quả quyết: “Chính sự kiện ấy đã góp phần kéo Mỹ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Phía Mỹ cũng nhìn nhận bộ đội Việt Nam một cách thân thiện hơn rất nhiều, mở ra một chân trời mới trong ngoại giao Việt - Mỹ”. Trong khi đó cựu binh Nguyễn Hữu Tuấn phân trần: “Nhờ có các chiến sĩ tàu 11 cứu sống, mà sau này người nữ phi công sinh con và đặt tên con là Navy Eleven (Hải quân 11)".
Sau những phút giây gặp gỡ xúc động, ký ức xa xưa ùa về trong tâm khảm 5 cựu binh đầy kiêu hãnh: “Trong suốt đời lính biển của tôi, thì sự kiện cứu 3 phi công Mỹ năm 1988 là đáng nhớ nhất. Bây giờ đã về đời thường, nhưng ký ức những ngày đi biển luôn tràn đầy mỗi khi ai nhắc tới sự kiện 3 phi công Mỹ được cứu sống ngày ấy”.
Nhấp thêm ngụm trà, ông Giáo kể: Lúc đó ông đeo hàm Thượng úy, giữ chức máy phó ngành cơ điện của tàu, ông Thể lúc đó giữ chức thuyền phó quân sự đeo hàm Đại úy, ông Tạo đeo lon Đại úy giữ chức thuyền trường tàu HQ-11, cựu binh Nguyễn Huy Tuấn giữ chức máy trưởng đeo lon Trung úy, cựu binh Lê Huy Giáp giữ chức ngành trưởng hàng hải.
11 giờ 15 phút ngày 10/7/1988 như thường lệ, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 ăn cơm vừa xong, chuẩn bị nghỉ trưa, thì bất chợt phát hiện tiếng máy bay gầm rú phía đông đảo Đá Lớn. Chỉ vài phút sau, chiếc máy bay dạng vận tải quân sự vụt tới lắc lư như có ý xin hạ cánh. “Toàn tàu báo động chiến đấu khẩn cấp”- tiếng thuyền trưởng Đại úy Nguyễn Quang Tạo hô lớn. Một hồi kẻng báo động chiến đấu vang lên từ phòng trực ban. Tất cả về vị trí chiến đấu.
Lúc này chiếc máy bay loạng choạng phía bắc đảo Đá Lớn, rồi đâm nhào xuống biển cách tàu 1 hải lý. Tất cả cán bộ chiến sĩ trên tàu chỉ kịp nhìn thấy một luồng sóng trắng xóa, rồi từ đó hiện lên một chiếc phao cao su, trên đó có 3 người. Thuyền phó quân sự Đại úy Hoàng Văn Thể nhận lệnh hạ 2 xuồng cứu sinh và trực tiếp chỉ huy một tiểu đội nhanh chóng cơ động về phía máy bay gặp nạn cứu người. Giữa sóng to gió lớn, 2 chiếc xuồng cứu sinh nhỏ xíu như nuốt vào lòng biển cứ chồm lên ngụp xuống. Quần áo cán bộ chiến sĩ ướt nhèm. Khi tiếp cận, những người bị nạn vô cùng hoảng hốt. Xung quanh họ là một màu nước biển vàng chói. Thì ra họ đã kịp dựt những chai thuốc phát tín hiệu cấp cứu lúc máy bay vừa chìm. Một phi công đang cầm bộ đàm liên lạc với người của họ. Nêu cao tinh thần cảnh giác, thuyền phó quân sự Hoàng Văn Thể đã yêu cầu thu bộ đàm liên lạc và nói bằng tiếng Anh: “Chúng tôi là cán bộ chiến sĩ Hải quân Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng cứu các bạn”. 3 phi công mừng rỡ lộ rõ trên khuôn mặt. Một phi công nữ nói và ra hiệu chị đang có thai 3 tháng, xin được cứu. “Sau khi nghe nữ phi công nói như vậy, tôi liền ra lệnh cho tổ xuồng chuyển họ xuống xuồng rồi đưa họ về tàu. Ngay khi bước chân lên tàu, chúng tôi tổ chức đón tiếp ân cần, thân thiện và khám sức khỏe cho phi công nữ đang mang thai. Biết đứa con trong bụng còn sống, chị đã khóc. Tên chị là Stein Necker (nhân viên), còn hai người kia là Richard Kamaurer (chỉ huy tổ lái), và Michael Rneel (nhân viên). Dĩ nhiên, công tác bảo đảm an ninh cẩn mật luôn chú trọng đặt lên hàng đầu”, Thượng tá Thể hồi tưởng lại.
Ngay sau khi 3 phi công Mỹ ổn định tinh thần, thuyền phó Thể đã cử Trung úy máy trưởng Nguyễn Huy Tuấn - người nói tiếng Anh giỏi nhất trực tiếp làm việc với 3 phi công gặp nạn. Qua tiếp xúc được biết họ là thành viên của đoàn bay CT-39-NALO192 thuộc Hải quân Mỹ (Hạm đội Thái Bình Dương). Hôm đó họ đi làm nhiệm vụ từ Hàn Quốc đến căn cứ Hải quân Subic (Philippines) thì gặp thời tiết xấu, máy bay không thể hạ cánh được, bèn bay vòng ra biển thì gặp nạn.
Trưa ấy, 106 cán bộ chiến sĩ toàn tàu HQ-11 không ai chợp mắt. Họ mừng vì đã cứu được 3 phi công Mỹ an toàn.
Nhịn tắm, dành sữa cho bạn Mỹ
Cựu binh Hoàng Văn Thể cho biết, thời điểm ấy, tàu HQ-11 đi làm nhiệm vụ trên biển xa đã 73 ngày, lương thực thực phẩm, rau xanh, nước ngọt đã cạn. Giữa biển khơi bao la nắng và gió, hơn 106 cán bộ chiến sĩ đã phải chắt chiu chia nhau từng ca nước ngọt, nhường nhau từng cọng rau xanh, nhưng không nỡ để 3 phi công thiếu thốn. “Chúng tôi đã phát động phong trào tiết kiệm: “Mỗi người nhịn tắm 7 ngày dành nước ngọt cho 3 phi công”. Thấy các bạn không ăn được cơm, Ban Chỉ huy tàu quyết định mở kho lương thực dự trữ lấy mì tôm và sữa hộp đặc cho họ. Vận động cán bộ chiến sĩ nhường thuốc lá cho bạn, còn tất cả anh em hút thuốc rê, thuốc lào. Mọi nơi ăn, nghỉ của bạn được cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 chăm sóc chu đáo. Họ đã không còn rụt rè nữa. Có người đã khe khẽ hát, đi lại trên lan can hút thuốc nhả khói khắp tàu”, ông Thể kể.
Sau khi liên lạc với Hoa Kỳ theo đường ngoại giao, sáng 13/7/1988, 3 phi công gặp nạn được tàu của Hải đoàn 128 Hải quân đón về đất liền. Cuộc chia tay có một không hai diễn ra ngay trên boong tàu. Giữa bộn bề sóng nước, một bên là những vị khách quốc tế gặp nạn, một bên là ân nhân chiến sĩ Hải quân, ai cũng xúc động chẳng nói nên lời. Những tấm ảnh chụp vội vã làm kỷ niệm như thay lời ghi nhớ công ơn của các chiến sĩ Hải quân Việt Nam đã cứu họ. Xúc động xen lẫn niềm vui, anh phi công Richard Kamaurer (chỉ huy tổ lái) nói: “Xin cảm ơn bộ đội Việt Nam. Cảm ơn các bạn. Nếu không có các bạn chúng tôi đã bị đắm chìm dưới đại dương bao la này”. Còn chị Stein Necker đã bật khóc. Chị xin mảnh giấy, mượn bút viết vội lá thư như thay lời cảm ơn gửi lại tàu, bức thư có đoạn: “Cảm ơn các bạn đã cứu chúng tôi từ lòng biển cả. Lòng mến khách của các bạn thật tuyệt vời. Cảm ơn các bạn rất nhiều và chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau”.
Bức thư của người nữ phi công Mỹ viết vội ngày nào đã thành kỷ vật thiêng liêng đặt khiêm tốn trong phòng truyền thống của Lữ đoàn 171 Hải quân. Mỗi lần nhớ đến, như nhắc lại một kỷ niệm đẹp về lòng nhân ái của những người lính bộ đội Cụ Hồ. Được biết đứa con trai của người nữ phi công Stein Necker được sinh ra trên đất Mỹ và được chị đặt tên con là Navy Eleven (Hải quân 11) - tên con tàu với những người lính Hải quân dũng cảm đầy lòng nhân ái đã cứu mẹ con chị thoát nạn giữa đại dương bao la.
Tình đồng đội sau ngày “gác kiếm”
Thời gian trôi đi, những người lính trên tàu 11 ngày ấy, bây giờ người đã nghỉ hưu, người chuyển ngành, nhưng trong ký ức của họ, sự kiện cứu phi công Mỹ ngày ấy chưa bao giờ xưa cũ.
Những cựu binh thuyền trưởng Nguyễn Quang Tạo, thuyền phó quân sự Hoàng Văn Thể, máy phó Trần Văn Giáo, máy trưởng Nguyễn Huy Tuấn, sĩ quan hàng hải Lê Hữu Giáp trên con tàu HQ-11 năm xưa nay đã nghỉ hưu sau hơn 30 năm “lăn lộn” với biển cả.
33 năm hội ngộ, bao kỷ niệm ùa về một thời áo lính. Ở cái tuổi trên ngưỡng “lục tuần”, họ vẫn vô tư gọi nhau bằng “thằng, mày, tao, hắn” đầy chất lính biển. Rồi lại trầm ngâm ứa nước mắt khi hồi tưởng lại những ngày đồng cam cộng khổ ăn sóng nói gió giữa Trường Sa ngày ấy.