Ngoại giao kinh tế tận dụng thời cơ phát triển đất nước

Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng nhận định, ngoại giao kinh tế (NGKT) trong tình hình mới góp phần phục vụ các mục tiêu phát triển của đất nước, nếu kịp thời nắm bắt, tận dụng tốt thời cơ sẽ mang đến cơ hội thiết lập vị trí cao hơn trong trật tự kinh tế thế giới đang định hình.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Lễ đón chính thức các Đoàn khách quốc tế tham dự Hội nghị P4G Việt Nam 2025. (Ảnh: Quang Hòa)

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Lễ đón chính thức các Đoàn khách quốc tế tham dự Hội nghị P4G Việt Nam 2025. (Ảnh: Quang Hòa)

Xin Thứ trưởng cho biết vai trò và đóng góp của NGKT đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian qua?

Nhìn lại chặng đường từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ XIII đến nay, có thể khẳng định rằng, công tác NGKT đã đạt những bước tiến quan trọng, mang tính đột phá. Thành quả này là sự kết tinh của những yếu tố nền tảng, mang tầm vóc chiến lược. Đó là sự đổi mới tư duy sâu sắc, chỉ đạo quyết liệt của Đảng. Lần đầu tiên NGKT được đưa thành một chủ trương trong văn kiện Đại hội Đảng. Đó là sức mạnh của sự đồng thuận cao và vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Từ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước đến đối ngoại nhân dân, từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong nước đến các cơ quan đại diện ở nước ngoài, tất cả đã tạo nên một mặt trận ngoại giao kinh tế thống nhất, hiệp đồng chặt chẽ và hiệu quả.

Ngay sau Đại hội XIII, Đảng bộ Bộ Ngoại giao đã cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, kiến nghị ban hành Chỉ thị 15 của Ban Bí thư và Nghị quyết 21 về Chương trình hành động của Chính phủ, tạo nền tảng chính trị và pháp lý vững chắc, khẳng định vị thế mới của ngoại giao kinh tế: là một nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của ngoại giao Việt Nam; một động lực quan trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Những nền tảng vững chắc đó đã mở đường cho công tác NGKT được triển khai bài bản, toàn diện trên tất cả các trụ cột đối ngoại, từ đối ngoại cấp cao và các cấp đến ngoại giao chuyên ngành, trên tất cả các lĩnh vực, các thị trường; cả song phương và đa phương, mang lại nhiều kết quả thực chất, có ý nghĩa, đóng góp quan trọng vào những thành tựu to lớn chung của đối ngoại đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước, được Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao. Nổi bật là:

Thứ nhất, nỗ lực làm sâu sắc thêm quan hệ của nước ta với các nước, đặc biệt quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư. NGKT thực sự trở thành nội hàm then chốt trong tất cả các hoạt động đối ngoại, đặc biệt đối ngoại cấp cao. Trong nội hàm nâng cấp, nâng tầm quan hệ với các đối tác, kinh tế là ưu tiên hàng đầu và đạt những kết quả rất cụ thể, thiết thực, tạo ra thời cơ mới cho phát triển đất nước.

Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Thứ hai, khi đại dịch Covid 19 bùng phát, NGKT đã nhanh chóng tập trung mũi nhọn vào ngoại giao vaccine. “Chiến dịch” ngoại giao vaccine trong năm 2021 đã đóng góp quyết định vào thực hiện thành công chiến lược vaccine, tự hào là nước “đi sau về trước”. Đây là điều kiện tiên quyết để nước ta trở thành một trong những nước mở cửa sớm, làm tiền đề cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội như ngày nay.

Thứ ba, đẩy mạnh hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế; kịp thời, nhanh nhạy tranh thủ thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ các động lực mới cho phát triển, nhất là tài chính xanh, đầu tư cho chuyển đổi năng lượng, đầu tư chất lượng cao…

Thứ tư, tích cực đồng hành, kết nối, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư và mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, nhất là mở rộng các thị trường tiềm năng, khơi thông các thị trường mới.

Thứ năm, chủ động, nhạy bén trong công tác nghiên cứu, tham mưu phục vụ điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ trên cơ sở bám sát nhu cầu trong nước và các trọng tâm của Chính phủ. Từ đầu nhiệm kỳ tới nay, Bộ Ngoại giao đã có hàng trăm báo cáo có chất lượng về tình hình kinh tế thế giới và các vấn đề đang nổi lên có tác động sâu sắc đến phát triển kinh tế đất nước, từ đó tham mưu, kiến nghị chính sách phù hợp với Việt Nam.

Vậy, những bài học của những kết quả đạt được của công tác NGKT kể trên là gì thưa Thứ trưởng?

Trong qua trình triển khai và với những kết quả đạt được, có thể rút ra 5 bài học lớn, gồm:

Thứ nhất, công tác ngoại giao kinh tế cần bám sát các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước với phương châm “kiên trì, kiên định đường lối, chủ trương nhưng linh hoạt, quyết đoán, đưa ra các quyết định chiến lược kịp thời, đúng lúc, đúng thời điểm và quyết liệt, đeo bám đến cùng, đồng thời sáng tạo, linh hoạt nhằm tạo đà bứt phá”.

Thứ hai, cần huy động sự đoàn kết thống nhất, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp vì mục tiêu chung qua đó thống nhất về định hướng và làm nổi bật những thế mạnh, đặc thù trong triển khai nhiệm vụ được giao. Trong đó, sự chủ động, sáng tạo của từng lực lượng triển khai cũng như tinh thần, trách nhiệm cao, phối hợp hiệu quả là hết sức quan trọng.

Thứ ba, bám sát tình hình, diễn biến, các xu thế mới của kinh tế thế giới, nắm chắc tình hình và nhu cầu phát triển ở trong nước để có ứng xử linh hoạt, kịp thời. Triển khai công tác phải hết sức nhạy bén, bám sát các chỉ đạo, trọng tâm của Chính phủ, bảo đảm tập trung nguồn lực, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, rõ lộ trình, rõ đối tác, rõ nhiệm vụ để đạt các kết quả thực chất, cụ thể.

Thứ tư, công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chính sách là then chốt, phải nắm chắc tình hình để xác định các giải pháp phù hợp và quyết liệt, sáng tạo, kịp thời tham mưu, đề xuất, phát huy tối đa tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh.

Theo Thứ trưởng, bối cảnh thế giới và khu vực thời gian tới tác động như thế nào tới kinh tế các quốc gia thời gian tới? Công tác ngoại giao kinh tế của Việt Nam cần làm gì trong bối cảnh đó?

Kinh tế thế giới đang trải qua những thay đổi có tính thời đại, biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, với nhiều xu thế mới và vai trò ngày càng quan trọng của các động lực tăng trưởng mới. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ những xu thế tăng trưởng chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn do chiến tranh thương mại, tranh giành tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước. Cùng với đó, đổi mới công nghệ diễn ra nhanh, tạo điều kiện cho các nước thực hiện các bước phát triển rút ngắn song đặt ra nguy cơ lớn về tụt hậu. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vẫn tiếp diễn, song xuất hiện xu hướng gia tăng bảo hộ, phân tách, phân mảnh, co cụm, bất bình đẳng; Cạnh tranh địa kinh tế-chính trị ngày càng gay gắt, nhất là tại châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á, gia tăng sức ép chọn bên cho các nước vừa và nhỏ. Các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống tác động ngày càng sâu rộng tới an ninh, phát triển của nhiều quốc gia, yêu cầu nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế.

Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với các Đại sứ, Trưởng Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài về đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm 2025, tạo đà tăng trưởng hai con số giai đoạn tiếp theo.(Ảnh: Hoàng Hồng)

Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với các Đại sứ, Trưởng Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài về đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm 2025, tạo đà tăng trưởng hai con số giai đoạn tiếp theo.(Ảnh: Hoàng Hồng)

Trong bối cảnh đó, các quốc gia trên thế giới phải tập trung giải quyết căn bản 05 vấn đề lớn. Đó là những vấn đề phải làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới; tranh thủ ngoại lực phục vụ phát triển. Cùng với đó, các quốc gia cũng cần bảo đảm tự chủ chiến lược, an ninh kinh tế, đồng thời hội nhập, liên kết quốc tế sâu rộng, thực chất. Ngoài ra, việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng, mở rộng thị trường, đồng thời bảo vệ, củng cố sản xuất trong nước; duy trì tăng trưởng, phát triển, đồng thời bảo đảm ổn định xã hội, bảo vệ môi trường cũng là yếu tố quan trọng trong sự phát triển lành mạnh của mỗi quốc gia.

Sau gần bốn thập kỷ Đổi mới, Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, hướng tới 2 mục tiêu chiến lược 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045). Đây thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ của đất nước cả về tư duy, hành động và khát vọng, là sự tiếp nối hành trình gần 40 năm đổi mới để “vươn mình, bứt phá và phát triển vượt bậc”.

Tôi cho rằng để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, ngoại giao kinh tế cần có sự chuyển mình mạnh mẽ trên các phương diện sau:

Về mục tiêu, chuyển từ “lượng” sang “chất”, từ thu hút sang kiến tạo. Trên tinh thần Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới, ngoại giao kinh tế Việt Nam sẽ không chỉ dừng ở việc “đến sau”, “tham gia, gia nhập” mà kỳ vọng đóng góp “trí và lực” để “xây dựng và định hình” các khuôn khổ hợp tác, tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển, qua đó đặt nền tảng vững chắc cho không gian phát triển mới cho đất nước.

Nội hàmcủa NGKT cũng sẽ không chỉ là xúc tiến thương mại, đầu tư, mà còn mở rộng sang các nội hàm mới, chuyên biệt hơn như ngoại giao khoa học công nghệ, ngoại giao xanh… Chúng ta có thể thấy vừa qua, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm, chúng ta đã có sự chuyển biến chiến lược từ hợp tác kinh tế sang liên kết kinh tế, qua đó mở ra những cơ hội mới trong tạo dựng, thu hút các nguồn lực.

Về phương thức, bám sát các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, với phương châm “chủ động - sáng tạo - đồng bộ - hiệu quả”, công tác NGKT cần sự đồng lòng, phối hợp, gắn kết chặt chẽ hơn giữa các chủ thể, giữa trong nước – ngoài nước, giữa các trụ cột đối ngoại, giữa Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội/doanh nghiệp. Trong đó, sáng tạo trong việc sử dụng công nghệ làm đòn bảy, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo phục vụ công tác phân tích, đánh giá và xây dựng chính sách; chủ động dự báo, cảnh báo sớm xu thế, tình hình và đề xuất chính sách, biện pháp ứng phó; tăng cường gắn kết giữa doanh nghiệp - nhà nước - đối tác nước ngoài; khai thác hiệu quả đa tầng nấc quan hệ quốc tế, cả song phương, đa phương, cả liên kết tiểu vùng, khu vực và liên khu vực.

Về đối tượng, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của “Bộ tứ trụ cột” Nghị quyết vừa được ban hành, cần có sự điều chỉnh căn bản các đối tượng là trung tâm phục vụ nhằm góp phần tăng cường tự chủ, nâng cao nội lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Với cách tiếp cận mới như Thứ trưởng vừa nêu trên, các giải pháp trọng tâm triển khai NGKT trong kỷ nguyên mới sẽ như thế nào, thưa Thứ trưởng?

Với tinh thần “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp; lấy ngoại giao kinh tế là trung tâm” của dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XIV, và với các tiếp cận mới nêu trên, công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển thời gian tới cần bám sát 5 ưu tiên sau:

Thứ nhất, làm sắc nét hơn nội dung kinh tế trong các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao; chú trọng các chương trình, dự án, sản phẩm cụ thể, có ý nghĩa chiến lược, có tính khả thi; đồng thời nâng cao hiệu quả cơ chế rà soát, đôn đốc để bảo đảm các cam kết, thỏa thuận của Lãnh đạo cấp cao được hiện thực hóa nhanh chóng với tinh thần “đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện, đã thực hiện là phải có kết quả”.

Thứ hai, không ngừng làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, du lịch…). Khai thác tối đa và hiệu quả các FTA đã ký kết, mở rộng và tiếp cận các thị trường tiềm năng (Trung Đông, Mỹ La-tinh, Trung Á…), tiếp tục đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng chủ trì cuộc họp sơ kết công tác ngoại giao kinh tế 6 tháng đầu năm 2025 của Ban Chỉ đạo ngoại giao kinh tế, Bộ Ngoại giao, ngày 21/7/2025. (Ảnh: Hoàng Hồng)

Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng chủ trì cuộc họp sơ kết công tác ngoại giao kinh tế 6 tháng đầu năm 2025 của Ban Chỉ đạo ngoại giao kinh tế, Bộ Ngoại giao, ngày 21/7/2025. (Ảnh: Hoàng Hồng)

Thứ ba, nâng cao chất lượng và tính thiết thực của công tác nghiên cứu, gắn với hơi thở cuộc sống, bám sát tình hình thực tế, kịp thời tham mưu chính sách “trúng” và “đúng”, vừa tạo không gian chiến lược vừa thúc đẩy các trụ cột phát triển trong nước.

Thứ tư, gắn kết chặt chẽ NGKT với hội nhập quốc tế, chủ động tham gia quá trình định hình các luật lệ, chuẩn mực quốc tế mới, nhất là trong các lĩnh vực có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của kinh tế thế giới.

Thứ năm, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, nhất là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh “Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là đột phá chiến lược, là động lực chủ yếu thúc đẩy hiện đại hóa đất nước, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững”. Do đó, ưu tiên hàng đầu là triển khai quyết liệt, hiệu quả ngoại giao khoa học công nghệ, với trọng tâm là: (i) xây dựng và thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ chiến lược; (ii) thu hút các chuyên gia, tri thức người Việt Nam ở nước ngoài cùng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước; và (iii) xây dựng mạng lưới đối tác khoa học công nghệ toàn cầu.

Cuối cùng, công tác ngoại giao kinh tế cũng cần cùng các ngành, các địa phương chủ động, tích cực giải quyết dứt điểm những dự án lớn tồn đọng, tạo đòn bẩy thu hút dự án mới.

Bảo Chi

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/ngoai-giao-kinh-te-tan-dung-thoi-co-phat-trien-dat-nuoc-325486.html