Người mẹ của chiến tranh và hòa bình
Sau 30/4/1975, đất nước thống nhất. Để có ngày hòa bình độc lập, chúng ta luôn tưởng nhớ đến những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Gia đình tôi, cũng như biết bao gia đình Việt khác, đã góp một phần nhỏ vào cuộc kháng chiến vĩ đại ấy.
Thời kháng chiến chống Pháp
Mẹ tôi, một cô gái trẻ từ làng quê Bến Tre đã dứt áo ra đi để tham gia kháng chiến khi tuổi đời còn rất trẻ. Với niềm tin sắt đá vào lý tưởng cách mạng, mẹ tôi đã không ngại khó khăn, gian khổ. Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian nan, mẹ may mắn được gặp gỡ và học hỏi từ những người lãnh đạo cách mạng như dì Nguyễn Thị Định. Dưới sự chỉ dạy của dì, mẹ tôi đã trưởng thành vượt bậc, trở thành một đảng viên trẻ năng động, dũng cảm.
Có một lần, khi căn cứ cách mạng bị giặc Pháp bao vây, việc cung cấp lương thực trở nên cấp bách. Mẹ tôi đã tình nguyện đảm nhận nhiệm vụ nguy hiểm này. Với trí thông minh và sự nhanh nhạy, mẹ đã nghĩ ra một kế hoạch táo bạo: Dùng những chiếc bè chuối và bập dừa nước ngụy trang thành những đám lục bình trôi trên sông để vận chuyển gạo và nước.
Kế hoạch của mẹ đã được đồng chí chỉ huy chấp thuận. Vào một đêm tối, dưới ánh trăng mờ ảo, mẹ cùng đồng đội lặng lẽ đưa những chiếc bè chở đầy lương thực ra sông. Sáng hôm sau, khi chiếc bè cập bến, các đồng chí vô cùng mừng rỡ. Họ vội vàng chất gạo lên bờ, lo lắng hỏi han mẹ tôi. Trong không khí ấm áp tình đồng chí, mẹ đã kể lại những khó khăn mà mình đã trải qua.
Câu chuyện về mẹ tôi không chỉ là một câu chuyện về lòng dũng cảm mà còn là câu chuyện về tình đồng chí, tình quân dân sâu sắc. Nó đã để lại trong tôi những cảm xúc khó tả và niềm tự hào vô bờ bến về mẹ.
Cuộc kháng chiến chống Pháp vẫn tiếp diễn. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, mẹ và ba cùng nhiều cán bộ khác được lệnh tập kết ra Bắc. Tuy nhiên, theo chỉ thị của Bác Hồ, một số cán bộ ưu tú đã ở lại miền Nam để chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử. Gia đình tôi cũng nằm trong số đó.
Thời kháng chiến chống Mỹ
Theo chỉ thị của Bác Hồ, một số cán bộ ưu tú ở lại miền Nam để chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử. Gia đình tôi cũng nằm trong số đó. Được ở lại là một vinh dự và sẽ trở thành cán bộ cốt cán trong ý nghĩa câu nói quen miệng từ vùng kháng chiến: “Nhất trụ (ở lại), nhì tù (ở tù), tam bưng (kháng chiến trong bưng biền), tứ kết (được đi tập kết)”, gia đình tôi được đưa về một khu chính rất xa lạ ở chiến khuThanh Thông, Bến Tre. Nguyên nhân là cha mẹ tôi sẽ hoạt động ngầm, vì vậy không thể để ai quen mặt nhận ra được.
Ba mẹ tôi được tổ chức phân công hoạt động ngầm để vận động nhân dân và nắm bắt tin tức cho cách mạng. Ông bà đã lập một phòng thuốc đông y để khám bệnh. Xuất phát từ gốc rễ đông y, ba tôi đã được học gia truyền từ nhiều đời trước, và ông cũng tham gia vào chương trình dân y Nam Bộ của chính phủ dưới sự điều hành của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng. Mẹ tôi cũng là một trợ thủ đắc lực cho ba trong việc khám và chữa bệnh.
Phòng thuốc nổi tiếng và sự xã giao rộng rãi của ba tôi đã khiến bọn mật vụ Ngô Đình Nhu nghi ngờ và theo dõi sát sao. Chúng phát hiện ba tôi là một người cộng sản và lập kế hoạch bắt ông cùng một số đồng chí khác. Đến đêm, chúng bao vây quanh nhà, mà nhà tôi nằm cạnh sông và bên cạnh có một ụ ghe nhỏ. Ba mẹ tôi, là những cán bộ có kinh nghiệm trong kháng chiến, đã đào sẵn một lỗ chó cạnh ụ ghe để phòng khi giặc bao vây. Ba tôi nhẹ nhàng chui vào đó, rồi lặng lẽ bơi ra giữa dòng sông, nhờ một ghe bán khoai lang tình cờ đi ngang qua để thoát khỏi sự bắt bớ và truy đuổi. Ông đã vào rừng U Minh để hoạt động. Ba ra đi không hẹn ngày trở lại, để lại bốn mẹ con tôi.
Mẹ tôi, một người phụ nữ từ nơi quê hương lạ, không có bà con hay thân thích, chỉ có bạn bè và đồng chí cộng sản hoạt động ngầm, đã rất cô đơn. Chế độ Ngô Đình Nhiệm rất tàn ác, chúng hành quyết dã man những người làm cộng sản. Trong hoàn cảnh đó, mẹ tôi thật đơn độc, mọi mối quan hệ đều bị cắt đứt, phòng thuốc đã bị đóng cửa, thu nhập không còn, và sau đó, bọn giặc kết tội ba mẹ tôi là cộng sản rồi bắt mẹ tôi vào tù. Bốn đứa con cũng ở chung tù với mẹ.
Trong tù, chúng tàn nhẫn đánh đập mẹ tôi và hăm dọa đủ điều, nhưng bà nhất quyết không khai. Bà chỉ nói rằng ba tôi là thầy thuốc Nam, mỗi năm đều lên Thất Sơn để học thêm từ các vị đạo sĩ và hái thuốc, có khi đi vài tháng, có khi cả năm mới về. Chúng không làm gì nên cuối cùng phải thả bà ra sau gần một năm tù và tiếp tục theo dõi.
Cũng vào năm đó, vào ngày 29 Tết, khi mọi người đều chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán, mẹ tôi đã chuẩn bị đồ đạc và bất ngờ đưa bốn anh em chúng tôi lên một chiếc xuồng nhỏ, rời khỏi khu trù mật của Ngô Đình Nhu để trốn vào chiến khu. Tại chiến khu, mẹ tôi được gặp lại ba và được phân công vào nhiệm vụ khác. Thời điểm này, bọn Diệm - Nhu đã trở nên tàn ác hơn. Chúng ban hành luật 10/59 để hợp thức hóa việc giết hại nhân dân, nhất là những ai thân thiện hoặc theo Việt Cộng. Ngô Đình Nhu từng nói một câu tàn độc: “Thà giết lầm còn hơn bỏ sót”. Chúng ra tay bằng những máy chém khắp miền Nam.
Trước áp lực ngày càng lớn, nhân dân miền Nam không thể chịu đựng thêm nữa. Do đó, tại Bến Tre, dì Nguyễn Thị Định, Thủ trưởng trước của mẹ tôi, đã vận động tạo nên phong trào Đồng Khởi Bến Tre năm 1960. Tại quân khu 9, nơi vùng kháng chiến của mẹ tôi, tổ chức đã điều mẹ tôi vào vùng sâu hơn để được an toàn. Vì tính chất ác liệt của chiến tranh, ba mẹ tôi nghĩ rằng cuộc chiến sẽ kéo dài và không chắc mình sẽ sống để thấy ngày đất nước độc lập, nên ba đã bàn với mẹ tôi tìm cách đưa hai anh em ra ngoài thành để sống với bên nội.
Năm 1963, Mỹ chính thức đổ quân vào cùng các đồng minh của chúng. Rất nhiều trận đánh đã xảy ra trên toàn miền Nam. Trong đó, có một trận chiến đã để lại trong lòng bà một kỷ niệm đau buồn nhưng cũng rất sâu sắc. Mẹ tôi may mắn bốc thăm được xung phong đi đánh giặc thì một người em nuôi của mẹ tôi đã giật lấy lá thăm ấy. Hai chị em mới rượt đuổi vòng quanh bồ lúa để mẹ tôi lấy lại lá thăm đó. Tuy nhiên, mẹ tôi mệt và giành không được. Và sau trận chiến ấy, người em của mẹ tôi đã hy sinh nằm lại chiến trường. Mẹ tôi đi lấy xác chỉ một mình. Vì trận đánh ấy, chúng ta hoàn toàn chiến thắng. Ở lại chiến trường lúc ấy chỉ còn mình mẹ tôi. Trong cảnh đêm, chỉ có một người nữ đảng viên cộng sản trước một cánh đồng lạnh lẽo đầy máu và xác chết. Vì tình thương với một người em kết nghĩa và những anh em đồng chí cạnh bà, tất cả mọi người đều thương nhau như anh em ruột thịt, không thể để xác lại vì bà biết chắc rằng ngày hôm sau quân giặc sẽ đến nữa. Vì thế, mẹ tôi một mình đi lấy hết xác trên một chiếc xuồng ba lá nhỏ chật vật suốt đêm và kết thúc việc ấy vào hừng đông sáng của ngày hôm sau.
Đến năm 1968, Bác Hồ mất, cả nước đều quá đau thương và xót xa. Ba mẹ tôi đã bàn bạc cùng đảng bộ địa phương xây nhà thờ để tưởng nhớ đến Bác. Bà con và mọi người đều đồng lòng ngay, dân địa phương cùng các cán bộ, người dân công, kẻ góp của, người thì mang đến nào gỗ, nào ván, nào lá chầm để dựng lên một nhà thờ Bác.
Việc xây dựng nhà thờ đầu tiên thật là đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa trong hoàn cảnh chiến tranh nguy hiểm. Ba tôi đã làm ra hai câu đối trước nhà thờ để ca ngợi Bác. Câu đối được viết như sau: “Áo ấm cơm no nhờ ơn Đảng, độc lập tự do nhớ Bác Hồ”. Làm xong hai câu liễn đối, chúng được dán lên hai cây cột chính của nhà thờ.
Thời gian cứ tiếp tục trôi qua, đất nước ta luôn bị dày vò dưới bom đạn Mỹ. Mỹ đã ném bom suốt 12 ngày đêm xuống thủ đô Hà Nội. Nhưng, nhân dân thủ đô đã kiên cường, bắn hạ cả pháo đài B52. Chiến công hiển hách đó, chỉ có nhân dân Việt Nam ta mới làm được; và cho đến tận thời điểm ngày hôm nay, chưa có một đất nước nào có thể đụng vào pháo đài B52 của Mỹ.
Năm 1972, chính quyền Sài Gòn và Mỹ phải ký hiệp định Paris. Còn trong Nam chính quyền Sài Gòn đã tổ chức những cuộc càn quét rất lớn. Lúc này, bộ đội và dân quân ta cũng đang ở thế sẵn sàng và hùng mạnh để làm đà chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh sau này. Đánh lớn, em tôi cũng là một dũng sĩ, bị thương nặng trong một trận chiến và được đưa vào tuyến sau để được chữa trị rất cẩn thận. Lúc đó mẹ tôi từ tuyến ngoài đi vào tuyến trong thăm em tôi. Nhìn thương con trong ánh mắt hiền hòa, mẹ tôi an ủi và nói rằng: “Vết thương con sẽ sớm lành thôi, chiến đấu với giặc đâu chỉ bằng sự trọn vẹn của thân thể”.
Khoảng một năm rưỡi sau, mặc dù tuổi rất còn nhỏ, em tôi được cho phép đi về thăm mẹ. Từ cánh bìa rừng của U Minh Thượng, em tôi phải đi bộ ra khoảng 10 cây số. Vào một buổi sáng tinh mơ, mẹ tôi đang nhổ mạ, thì nhìn thấy xa xa khoảng vài trăm mét có một chú bộ đội chạy về phía mẹ tôi làm rẽ nước tung toe hai bên đường hòa với những giọt sương mai của buổi sáng. Mặt trời vừa ló dạng, làm phản chiếu ánh sáng lung linh, phong cảnh thật là sinh động. Em tôi vừa chạy tới vừa chạy nhanh hơn và kêu tiếng: “Mẹ! Con về thăm mẹ!”. Và ôm chầm lấy mẹ. Cái ôm thương yêu, hạnh phúc này là cái ôm cuối cùng đầm ấm của hai mẹ con. Em tôi sinh ra, lớn lên trong kháng chiến, rồi trở thành một liệt sĩ, mẹ tôi thương nhớ lắm nhưng bà luôn hãnh diện vì đã sinh ra và đào tạo được thêm một con người chiến sĩ cách mạng Việt Nam đầy lòng yêu nước.
Chiến thắng đã đến, trong chiến dịch Hồ Chí Minh, mùa xuân năm ấy quân ta đã toàn thắng. Chính quyền Sài Gòn đã buông súng đầu hàng vô điều kiện. Đất nước được thống nhất, chiến tranh đã kết thúc và hòa bình thật sự đã đến với nhân dân Việt Nam...
Mẹ của thời hòa bình
Đất nước đã được giải phóng, ba mẹ tôi bận rộn lo công tác tiếp quản ở huyện Vĩnh Lợi, còn em gái tôi đi tiếp quản ở tỉnh. Hơn một năm sau, thì gia đình tôi đã bàn giao mọi công việc lại và về hồi hương ở Bến Tre. Cha mẹ tôi đã xin phép chuyển công tác từ văn phòng chính phủ T78 để về công tác Bến Tre.
Về địa phương để công tác trong thời bình. Quê hương tan nát hết vì chiến tranh bom đạn của Mỹ, và nhà của ba mẹ tôi chỉ còn đứng trơ trọi trước mưa nắng, vườn quang hiu quạnh không còn gì hết. Mẹ tôi phải làm lại từ đầu, phải rà phá bom mìn, lựu đạn M79 còn sót lại. Đặc biệt là đầu đạn M79 bằng nhôm, rất nhạy nổ, không phá được theo cách đốt; bà lấy phân u-rê và muỗng dừa (nửa cái gáo của quả dừa khô) úp lại và trên đó có đóng một thanh tre nhỏ có sơn đỏ, rồi để vài tháng thì nó tự ăn mòn tiêu hủy.
Đấu tranh trong lao động sản xuất thì dễ mà đấu tranh trong tư tưởng cách mạng để trở thành một cán bộ thanh sạch, để làm một người cộng sản trong sạch thì rất khó, nhất là trong lúc đất nước đang thật sự khó khăn và thiếu thốn bởi những hậu quả của chiến tranh và sự cấm vận của Mỹ. Đất nước đang kiệt quệ về mọi mặt. Năm 1976, dịch rầy nâu và sâu bọ đã phá hoại toàn mùa màng của khắp miền Nam. Tới năm 1977 thì bị hạn hán nặng nề. Tới năm 1978 thì toàn đồng bằng Sông Cửu Long bị ngập lụt rất cao. Năm 1976, dân chúng địa phương bị thiếu lương thực trầm trọng và mẹ tôi đã thấy trước điều đó, người đã phá rẫy, dọn dẹp xong vườn tược và trồng được rất nhiều cây cao lương. Lúc đó, ai cũng cần giống này để về trồng vì nó rất dễ trồng và là lương thực để cung cấp trong việc chăn nuôi gà, vịt, heo và người cũng có thể ăn. Tôi nói mẹ: “Mình trúng mùa và có nhu cầu của địa phương nên bán giá cao”. Mẹ tôi không đồng ý và nói rằng: “Nên bán với giá vừa đủ sản xuất thôi”, mẹ tôi nói: “Chuyện ông Thạch Sùng trong cổ tích lợi dụng mưa bão và dân không có lương thực thì ông đó bán lương thực với giá cắt cổ. Làm vậy thất đức lắm con à, hơn nữa mẹ là một người đảng viên cộng sản nên phân phát giống, để cứu đói cho bà con. Đó là một nghĩa cử nên làm và phải làm”.
Rồi kế tiếp đến chiến tranh biên giới Tây Nam, mẹ tôi phụ trách thêm công tác tuyển quân tại địa phương thì dân chúng nơi đó đem tặng quà cáp cho mẹ tôi, mẹ tôi không nhận và họ mang tiếp đến tiền bạc hoặc vàng để lo cho con họ khỏi phải đi nghĩa vụ. Tôi nói: “Nhà mình nghèo quá! Sao má không nhận?”. Mẹ tôi nói: “Nhà mình nghèo lắm với nửa chỉ vàng hay một chỉ vàng là quá lớn. Nhưng đối với chúng ta, đây là vấn đề đạo đức và danh dự, mình ăn rồi sẽ hết, nhưng mất danh dự để lại sẽ còn hoài.
Mẹ tôi đã từ biệt cõi đời nhiều năm rồi nhưng để lại trong chúng tôi sự thương yêu, nể phục, kính trọng. Bà đã dạy mình phải thật thà, thẳng thắn, trung hậu, cố gắng lao động trong sáng tạo để xây dựng kinh tế cho gia đình và là một người công dân trọn vẹn của đất nước. Trải qua trong cuộc sống, bà đã thể hiện và trải nghiệm đủ mọi tình huống cho một lý tưởng cao đẹp, bất vụ lợi trong danh và lợi (danh lợi). Bỏ đi tuổi xuân để tham gia cách mạng, chồng là một thương binh, con là một liệt sĩ. Khi đất nước chiến thắng thì bà muốn trở về thành một người dân (không màng danh lợi). Bà luôn mỉm cười trước cuộc sống, dù có vinh quang hay nghèo khó thì vẫn luôn bình dị. Đó là tấm gương mà anh em tôi lúc nào cũng nhớ đến và noi theo trong đó có thoáng qua những tư tưởng và phong cách của dì Nguyễn Thị Định.
(* ) Viện trưởng viện phát triển công nghệ và đào tạo
Nguồn DNSG: https://doanhnhansaigon.vn/nguoi-me-cua-chien-tranh-va-hoa-binh-315824.html