Người 'quê lúa' trên đất Nam Tây Nguyên
Trong cuộc di dân, hành trang mang trên vai lúc ấy, ngoài hi vọng, khát vọng về một cuộc sống ấm no trên quê hương mới còn thêm vốn quý là bản tính cần cù, chịu khó của những người quê lúa tự thuở xa xưa. Dẫu ở đâu, họ cũng quyết tâm 'ly hương không ly tổ'.
Người Thái Bình cùng với cư dân khắp dải đất hình chữ S đến Lâm Đồng sinh sống không chỉ dốc tâm sức làm giàu cho vùng đất mới mà đã góp phần tạo nên một nền văn hóa đa dạng, đặc sắc ở cao nguyên.
Từ những đổi thay
“Như em biết rồi đấy, người Thái Bình ở đâu cũng thế, bao đời nay vẫn vậy, chẳng bao giờ thay đổi được bản tính chịu khó, cần kiệm nên đời sống kinh tế dần trở nên khấm khá, thu nhập từ ổn định đến tăng cao” - anh Bùi Văn Thụy - Bí thư Đảng ủy thị trấn Lạc Dương (huyện Lạc Dương) niềm nở với tôi để bắt đầu câu chuyện. Nơi chân núi có chuyện tình của chàng K’Lang và nàng Biang huyền thoại, mỗi năm đều có những cuộc gặp gỡ của những người con Thái Bình xa quê. Đặc biệt, khi lễ hội chùa Keo đang diễn ra ở huyện Vũ Thư thì ở nơi xa cách hàng ngàn cây số, Hội đồng hương Thái Bình tại Lạc Dương lại tổ chức họp mặt. Rỉ rả từng câu chuyện, từng lời hỏi thăm, cho vơi đi nỗi lòng của người xa xứ. 6 xã, thị trấn của huyện đều có người Thái Bình. Hơn 60 thành viên đại diện cho các gia đình, đại gia đình cứ thế sum họp với nhau hơn 20 năm nay.
Ở huyện Lạc Dương đang trở mình thành một huyện trù phú hôm nay, chẳng thể phủ nhận vai trò, đóng góp của người con “quê lúa”, bởi trong quá trình phát triển đi lên, đa phần người Thái Bình ở đây làm việc trong lĩnh vực công an, quân đội, công chức nhà nước. Đến khi về hưu họ lại tiếp tục cống hiến cho địa phương ở vai trò bí thư chi bộ, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố… Người Thái Bình ly hương hôm nay cũng đã dần trở thành những “nông dân cao nguyên” thực thụ. Họ trồng rau hoa công nghệ cao trong nhà kính, trồng dâu nuôi tằm, trồng và chế biến cà phê, phát triển mô hình xen canh các loại cây ăn trái… mang lại thu nhập cao, ổn định.
Đến thăm xã Tân Nghĩa (huyện Di Linh), ông Trần Xuân Oánh - Bí thư Đảng ủy tự hào về những gì mà những người Thái Bình như ông đã và đang có được ở quê hương thứ 2. Ông kể: Năm 1992, theo hợp đồng kinh tế giữa tỉnh Thái Bình và Tổng Công ty Dâu tằm tơ Việt Nam cũng như chương trình di dân của 2 tỉnh mà người Thái Bình vào đây nhận khoán đất của nông trường, tiến hành trồng dâu nuôi tằm. Vài năm sau, trước sự biến đổi của nền kinh tế, đa phần người dân đã chuyển sang trồng cà phê. Từ bỡ ngỡ, làm quen đến quyết tâm làm giàu, từ diện tích ban đầu được nhận khoán giao khoán của nông trường chỉ có vài sào, giờ đây mỗi nhà lại tích cực mua thêm đất, khai hoang, mở rộng diện tích. Thu nhập hiện tại trên 1 ha đạt trên 250 triệu đồng. Cũng nhờ thế đã giữ chân được người Thái Bình tại cao nguyên Di Linh này khỏi những lần di dân tiếp theo.
Bỗng dưng tôi liên tưởng đến lời bài hát “Nắng ấm quê hương” của nhạc sĩ Vĩnh An: “Dù trong nắng trong mưa, lúa vẫn lên xanh tốt. Dù trong bom trong đạn đất vẫn cứ sinh sôi. Thái Bình ơi!”. Nắng gió cao nguyên, sự hoang vu, cách trở của núi rừng từ mấy thập niên trước chẳng thể nào làm nản lòng, chùn chân những người con Thái Bình trong công cuộc mưu sinh ở vùng kinh tế mới.
Làm giàu cho quê hương
“Từ bàn tay xưa cấy trong gió bấc/Chân lội bùn sâu dưới trời mưa phùn…”, những lời trong bài hát Hát về cây lúa hôm nay của nhạc sĩ Hoàng Vân như nói lên bao nhọc nhằn, vất vả của những người nông dân dành cả cuộc đời mình “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Và nó, cũng nằm trong hành trang mang theo của những người con Thái Bình vượt gần 1.500 cây số đặt chân đến núi rừng Nam Tây Nguyên mở đất từ hơn bốn mươi năm trước. Từ cái thuở trước sau đều bao phủ màu xanh của rừng già, những con đường mòn đi xuyên rừng, thời gian được tính bằng ngày đi bộ, hay con người khi ấy nghe tiếng chim hót, vượn kêu mà dự báo được thời tiết nắng, mưa. Ấy thế mà trên những vùng kinh tế mới hiện nay, thống kê cho thấy, chỉ còn một số rất ít hộ nghèo, còn lại đời sống đã khấm khá, con cái ăn học thành tài, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Không ít người còn trở thành những điển hình làm kinh tế giỏi với thu nhập hàng tỉ đồng mỗi năm.
Nói đến làm kinh tế giỏi, chúng tôi nhớ đến ông Trần Ngọc Hòa (hiện sống tại thôn Măng Line, Phường 7, TP Đà Lạt), một cựu thanh niên xung phong. Giấc mơ về một làng hoa mang tên Thái Bình ngay giữa lòng Đà Lạt cứ như suối nguồn chảy mãi trong ông, chưa bao giờ vơi cạn. Từ vùng quê Vũ Thư, Thái Bình, thấy Đà Lạt là một vùng đất mến người, có tiềm năng phát triển kinh tế, ông một thân một mình tìm vào vùng đất mới. Những ngày đầu, ông xin làm thuê cuốc mướn cho các vườn hoa, vừa làm vừa học hỏi kinh nghiệm trồng hoa từ các chủ vườn và tích cóp vốn. Qua nghiên cứu, ông quyết định thuê đất, bắt đầu vun xới những gốc hoa đầu tiên. Từ số vốn ít ỏi ban đầu với 250 m2 đất, gia đình ông dần tích lũy được vốn và mở rộng diện tích. Đầu tư trồng hoa theo hướng công nghệ cao, hiện tại, gia đình ông đã có 2,5 ha trồng hoa trong nhà kính, giải quyết việc làm thường xuyên cho 10 lao động với thu nhập ổn định. Đồng thời, ông cũng đảm nhận vai trò Tổ trưởng Tổ hợp tác chuyên canh hoa cúc của người Thái Bình ở Măng Line.
Cũng ở Lạc Dương có vợ chồng ông Ân, bà Nguyệt cũng nổi tiếng là chịu thương, chịu khó. Dù đã gần 70, trông ông lúc vẫn ra dáng một nông dân thực thụ với đôi mắt sáng, nụ cười tươi rói trên gương mặt đã sạm đi vì nắng gió cao nguyên. Ông bảo rằng chưa muốn nghỉ ngơi bởi cái nếp lao động cần cù đã ăn vào máu. Nếu bằng tuổi ông người khác đã có những phút giây hưu trí thảnh thơi thì ông lại cứ sớm khuya ở vườn tược. Hơn 2 ha nhà kính trồng hoa cúc chẳng ngày nào thiếu bước chân ông. Ông Ân kể: Ngày đó chẳng có gì nhiều ngoài rừng và rừng. Những người cán bộ muốn đi gần dân phải vượt qua những con đường mòn sỏi đá. Nhiều người chịu ở lại hẳn trong buôn với bà con K’Ho, dạy bà con cách làm kinh tế, thay đổi đời sống còn nhiều phong tục, tập quán lạc hậu. Cũng chính vì thế mà bản thân họ có điều kiện để tiếp xúc, hiểu hơn về cuộc sống nơi cao nguyên. Vùng đất được cho là “khỉ ho cò gáy” ngày nào lại là vùng đất bazan màu mỡ, phù hợp với các loại cây trồng, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Bao năm biết mấy ân tình
Người ta thường bảo thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên từ những miền kinh tế mới như chúng tôi là đã “mất gốc”. Ngược lại, thế hệ 8X, 9X như tôi tin rằng, cái bản chất gốc gác ấy dễ gì để quên, bởi nó đã ngấm vào trong máu thịt.
Trong suốt những chuyến công tác xuyên dải đất Nam Tây Nguyên này, bất cứ đâu gặp người Thái Bình, chúng tôi lại trao nhau những cái bắt tay, hỏi thăm một chút về ký ức nơi chôn nhau cắt rốn của mẹ cha. Những cái tên xóm Vũ Thư, Đông Hưng, Quỳnh Phụ… ở thôn Lộc Châu 1 (xã Tân Nghĩa, huyện Di Linh) từ hơn 20 năm nay chẳng thể xóa nhòa. Nó thậm chí còn có trước khi xã Tân Nghĩa được thành lập, từ lúc chỉ là một thôn của xã Đinh Lạc. “Ở Tân Nghĩa còn có bún cá rô đồng, có những làn điệu chèo Phong Châu (Đông Hưng) được thể hiện bằng giọng hát mộc mạc, chân chất của người làng Khuốc. Chồng kéo nhị, đánh đàn, vợ cất lời ca tiếng hát. Đấy, toàn là “đặc sản” mang từ quê vào”, Bí thư Đảng ủy xã giới thiệu. Bán anh em xa, mua láng giềng gần, mà láng giềng này cũng là người chung nơi “chôn nhau cắt rốn”. Những người như ông Bùi Văn Thụy, từ khi còn là một anh chàng kinh tế phụ trách các dự án vườn rừng, phát triển kinh tế cho bà con dân tộc thiểu số vẫn luôn chẳng thể quên ân tình mà những người Thái Bình luôn dành cho nhau. Ông bảo nhớ nhất những lần vào mùa mưa Nam Tây Nguyên. Để đến được địa bàn phải đi đường vòng xuống tận Khánh Hòa, rồi được ở nhờ người đồng hương Thái Bình một đêm rồi hôm sau mới có thể tiếp tục hành trình. Hàng chục km đường bùn đất bám chẳng thể làm chùn chân những người cán bộ trẻ tuổi, mang trong mình nhiệt huyết khám phá cuộc sống nơi quê hương mới.
Xuôi theo phía nam Lâm Đồng, tôi tình cờ gặp gỡ ông Nguyễn Trường Xiêm, Giám đốc HTX Bình Lộc. Cái tên Bình Lộc chợt gợi cho tôi chút gì đó tò mò. Hóa ra sự thân thuộc ấy chẳng phải vô cớ. Từ Thái Bình đến TP Bảo Lộc - Bình Lộc bắt đầu từ đó. “Nó để gợi nhớ cho mình về hai quê hương” - ông Xiêm giải thích.
Trở về Đà Lạt, trò chuyện với ông Bùi Đức Nam, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm ĐH II (Trường Đại học Thủy lợi Hà Nội) phụ trách miền Trung - Tây Nguyên, quê Thái Thụy, đã nghỉ hưu gần 10 năm, làm Chủ tịch Hội đồng hương Thái Bình tại TP Đà Lạt ngàn hoa, ông phấn khởi tâm sự: Hội đồng hương Thái Bình tại Đà Lạt thành lập từ những năm đầu thập niên tám mươi thế kỷ XX. Hiện hội có trên 250 hội viên. Hàng năm chúng tôi đều tổ chức gặp mặt để ôn lại truyền thống quê hương, thông tin tình hình quê hương đổi mới, chia sẻ và nhắc nhở nhau phấn đấu vượt khó khăn để trở thành những người năng động, làm ăn giỏi và là những công dân tốt, gương mẫu... Mọi chuyện vui, buồn của hội viên đều được Ban chấp hành đến chia sẻ kịp thời. Không chỉ tham gia hội đồng hương tại Đà Lạt mà một số hội viên còn gia nhập sinh hoạt tại các hội đồng hương huyện, xã... Thân tình, gắn bó với nhau, hỗ trợ nhau cả về vật chất lẫn tinh thần - sức hấp dẫn của từ đồng hương đã là sợi dây gắn kết người “quê lúa” ở trên mảnh đất Nam Tây Nguyên.
Nguồn Lâm Đồng: http://baolamdong.vn/xahoi/201910/nguoi-que-lua-tren-dat-nam-tay-nguyen-2970214/