Người thầy 30 năm cắm bản đi 'xin cơm' cho trò
30 năm qua, thầy giáo ấy đã cống hiến sức lực, trí tuệ và tuổi thanh xuân của mình cho vùng biên giới xa xôi, đầy khốn khó ở miền Tây xứ Thanh.
Giờ đây, dù mái tóc đã bạc màu, nhưng tâm huyết của thầy vẫn căng tràn và luôn mong muốn học trò của mình có cơm ăn, áo mặc để đến trường.
Ngược lên miền khó
Trong chuyến công tác ở vùng cao xứ Thanh, tình cờ tôi gặp thầy giáo Đặng Xuân Viên, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thanh Xuân (Quan Hóa, Thanh Hóa). Ngồi trò chuyện với nhau, tôi nghe thầy Viên kể về quãng thời gian “cõng chữ lên ngàn” của mình.
Thầy Viên kể: “Tôi còn nhớ, Chỉ thị số 287-CT, ngày 4/8/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về một số vấn đề cấp bách trong công tác giáo dục đào tạo. Do đó, năm học 1992 - 1993, là năm đầu tiên ngành giáo dục Thanh Hóa “cắm” giáo viên về tất cả các bản, để xây dựng điểm trường lẻ, thực hiện được chủ trương phổ cập giáo dục tiểu học, từng bước xóa nạn mù chữ.
Tháng 9/1992, tôi được phân công về huyện Quan Hóa nhận công tác tại Trường phổ thông cơ sở Trung Lý”.
Nhớ lại những ngày đầu bước chân lên vùng trời Trung Lý, ngước đôi mắt nhìn về phía những ngọn núi cao vòi vọi, giọng đượm buồn, thầy Viên bảo: “Ngày ấy, với sức trẻ đầy nhiệt huyết, tinh thần lạc quan, nên chúng tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Ban giám hiệu nhà trường phân công chúng tôi về các bản của xã Trung Lý, để vận động trẻ em người Mông ra lớp.
Ngày ấy, chỉ có tôi và bạn Đỗ Quang Bằng được phân công về Trường PTCS Trung Lý (nay thuộc xã Trung Lý, huyện Mường Lát). Trung Lý nổi tiếng với câu “nhất Trung Lý, nhì Trung Sơn”, bởi lẽ đã có rất nhiều người bỏ mạng ở đây vì sốt rét. Có thời điểm, người chết vì sốt rét trong xã lên đến hàng trăm.
Thời điểm chúng tôi lên, trước đó chừng nửa tháng, thầy Đỗ Xuân Thơm là Phó Hiệu trưởng Trường PTCS Trung Lý đã không qua khỏi vì sốt rét”.
Ký ức gian khó về những năm “cắm bản”
Khi nhắc đến thầy Đỗ Quang Bằng, nhà giáo Đặng Xuân Viên dường như “chạm” phải ký ức buồn thương không thể quên. Thầy Viên kể rằng, lúc lên nhận công tác, cả hai người cùng đi. Nhưng vừa lên đến trường được ba ngày, thầy Viên bị sốt rét và viêm cơ tay. Cánh tay phù to như cái phích, nên phải xuống Bệnh viện huyện Quan Hóa điều trị.
Thầy Bằng được phân công cùng một đồng nghiệp nữa vào bản Tài Chánh (xã Mường Lý, Mường Lát ngày nay) để dạy lớp 1 và lớp ghép 2, 3. Các thầy phải đi bộ gần 45 km đường rừng, từ bản Táo - điểm trường chính của Trường PTCS Trung Lý để đến bản Tài Chánh. Khi thầy Bằng và đồng nghiệp về điểm trường lẻ, được bà con ở bản dựng cho 2 gian nhà tạm, vách nứa, lợp lá cọ để làm lớp học và nơi ở.
Ổn định điểm trường xong, các thầy lại men theo lối mòn, xuyên rừng, vượt suối về điểm trường chính nhận sách giáo khoa, đồ dùng học tập, phấn, bảng, vở viết cho học sinh.
“Sáng 22/9/1992, thầy Bằng cùng hai thầy Lê Văn Duẩn, Nguyễn Văn Đông mỗi người cõng trên lưng khoảng 20kg sách giáo khoa, phấn, bảng con, vở viết trở lại các điểm lẻ. Ở thời điểm đó, đang mùa mưa bão, nước sông Mã rất to, dòng sông hẹp, sâu và chảy xiết. Ba thầy giáo cùng ông lái đò trên một chiếc thuyền độc mộc vượt sông tại bến đò Cò Cài - Tài Chánh.
Thuyền ra gần giữa dòng, sóng to khiến người và hành lý đều bị ướt. Bảo vệ đồng nghiệp và đồ dùng học tập cho học sinh, thầy Bằng đã không sợ nguy hiểm nhảy xuống dòng nước xiết cố bơi để đẩy thuyền.. Thế nhưng, do nước xiết nên thầy Bằng bị cuốn trôi.
Mãi tới ngày 11/10/1992, thi thể thầy Bằng mới được phát hiện. Khi ấy, người dân và các đồng nghiệp đã đứng ra lo việc hậu sự cho thầy. Mãi sau này, khi có điều kiện, gia đình mới đưa thầy về quê nhà”, thầy Viên kể, hai khóe mắt đỏ hoe.
“Vác rá xin cơm”
Năm 1996, khi chia tách Quan Hóa và huyện Mường Lát, nhà giáo Đặng Xuân Viên được cấp trên điều động về Quan Hóa để tiện công tác, chăm sóc gia đình. Trải qua nhiều vị trí, góp công “cõng chữ” ở nhiều ngôi trường gian khó, cuối năm 2008 thầy Viên được bổ nhiệm Hiệu trưởng Trường Tiểu học thị trấn Quan Hóa.
Tại ngôi trường này, Hiệu trưởng Đặng Xuân Viên cùng tập thể nhà trường đã xây dựng Trường Tiểu học thị trấn Quan Hóa đạt chuẩn quốc gia mức độ 2. Đây cũng là ngôi trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 đầu tiên và duy nhất của huyện đến thời điểm này. Sau gần 10 năm công tác, tháng 11/2017, thầy Viên lại được điều động, bổ nhiệm Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thanh Xuân.
Thanh Xuân là một trong những xã vùng sâu, đặc biệt khó khăn của huyện Quan Hóa. Khi đó, cơ sở vật chất trường lớp còn rất thiếu thốn. Trường có 6 điểm lẻ, giao thông đi lại rất khó khăn, phức tạp bởi địa hình đồi núi, sông suối chia cắt. Vào mùa mưa lũ, nước sông Mã và các dòng suối dâng cao, đường sá sạt lở gây nguy hiểm cho cả giáo viên lẫn học trò tại các điểm lẻ.
Học sinh nơi đây 98% là con em đồng bào Thái, Mường. Người dân sống chủ yếu bằng nghề trồng luồng, năng suất rất thấp. Bởi vậy, kinh tế của đại đa số hộ dân trong xã đều khó khăn, thiếu thốn. Hầu hết học sinh thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Cha mẹ không có điều kiện chăm sóc chu đáo cho con cái.
“Làm sao để học sinh nhà trường được ăn, ở bán trú vì có ăn, ở bán trú thì học sinh mới có điều kiện học chữ lâu dài được và bố mẹ các em sẽ an tâm gửi con đến trường”, đó là mong mỏi luôn cháy bỏng của người thầy đã có hơn 30 năm lăn lộn với sự nghiệp giáo dục vùng cao Đặng Xuân Viên.
“Năm học 2022 - 2023, nhà trường có 18 lớp với 297 học sinh. Trong đó có 123 em ở các bản khó khăn về học tại điểm trường trung tâm. Nhà trường thực hiện dạy học 8 buổi/tuần. Nhiều em ở cách trường từ 5 đến 6 cây số. Hàng ngày, các em đến trường phải qua sông bằng đò.
Đặc biệt, khi thời điểm các thủy điện xả nước hoặc mùa lũ, dòng sông Mã dâng cao rất nguy hiểm. Hơn nữa, bố mẹ các em đa số đi làm thuê ở xa mỗi năm chỉ về nhà vào dịp Tết hoặc gia đình có việc lớn. Các em phải ở với ông bà nội, ngoại hoặc ở với họ hàng thân thích nên việc đưa, đón mỗi ngày là điều không thể…”.
Mong ước là vậy nhưng ngặt nỗi là trường tiểu học nên chưa có mô hình bán trú. Vì vậy, muốn làm được điều này, chỉ còn cách xây dựng mô hình trường bán trú dân nuôi.
Không để “cái khó bó cái khôn”, thầy Viên tất tả đi xin các tổ chức, cá nhân, bạn bè... nhằm khôi phục lại bếp ăn bán trú cho học trò. Sau khi lên kế hoạch, rồi báo cáo với lãnh đạo huyện và Phòng GD&ĐT huyện Quan Hóa, thầy Viên đã viết “Thư ngỏ” kêu gọi sự chung tay, hỗ trợ từ mọi nguồn đóng góp.
Thầy Viên bảo, hành trình đi “xin cơm” cho học trò mới bắt đầu và thầy biết còn rất nhiều khó khăn, trở ngại nhưng thầy tin rằng mọi người sẽ ủng hộ việc làm này.
Lúc chia tay, thầy Viên kể với tôi rằng, khi được phân công lên miền núi công tác, thầy đã hứa với mẹ mình là “con chỉ lên công tác vài năm, rồi con sẽ được chuyển về xuôi để chăm sóc bố, mẹ”. Thế nhưng, đã 30 năm qua thầy vẫn không thể thực hiện được lời hứa với mẹ năm xưa.
“Bây giờ mình xác định là cố gắng chăm lo cho lũ học trò ở vùng đất còn nhiều cam khó này thôi. Nơi đây, ngần ấy năm gắn bó thì đã như quê hương của mình rồi”, thầy Viên thổ lộ.
Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/nguoi-thay-30-nam-cam-ban-di-xin-com-cho-tro-post610723.html