Nguy hại từ rác thải rắn
Mặc dù nhiều địa phương đã tăng cường áp dụng công nghệ hiện đại, giảm chôn lấp, tăng tái chế và thu hồi năng lượng nhưng chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp vẫn chiếm tỷ lệ cao, gây ô nhiễm môi trường.
Hình thức chôn lấp chiếm tỷ lệ cao
Theo thống kê, mỗi ngày Việt Nam phát sinh khoảng 67.000 tấn rác thải sinh hoạt, trong đó 64% được xử lý bằng chôn lấp. Đáng lưu ý, chỉ khoảng 20% trong số đó là chôn lấp hợp vệ sinh. Còn lại, phần lớn rác bị xử lý theo phương pháp truyền thống, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân sinh sống quanh các bãi rác.
Thực tế, hình thức chôn lấp hiện vẫn phổ biến vì chi phí thấp, đầu tư đơn giản, đặc biệt với các bãi rác tự phát, không hợp vệ sinh. Trong khi đó, việc xây dựng một bãi chôn lấp hợp chuẩn đòi hỏi nguồn vốn lớn cả về đầu tư lẫn vận hành. Đây là rào cản lớn đối với nhiều địa phương, nhất là các tỉnh chưa có năng lực tài chính mạnh. Ngay tại TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn, nhiều người dân đã phản ánh về việc các bãi chôn lấp gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của người dân.

Hình thức chôn lấp rác thải rắn sinh hoạt chiếm tỷ lệ cao (Ảnh: ITN)
Chia sẻ tại Tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt”, do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức, sáng 23/9,Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và công nghiệp Việt Nam GS.TS Nguyễn Hữu Dũng cho biết, là đơn vị theo dõi về quản lý chất thải rắn, phải nói rằng trong nhiều năm nay hệ thống pháp luật về quản lý chất thải rắn đã tương đối đồng bộ. Tuy nhiên, công tác thực hiện còn nhiều vấn đề bất cập. Việc xử lý rác phụ thuộc lớn vào ngân sách địa phương và năng lực đầu tư vào hạ tầng công nghệ. “So với năm 2012, tỷ lệ chôn lấp hiện đã giảm gần 30%, đây cũng là cả một sự cố gắng rất lớn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn rất nhiều thách thức cần giải quyết nếu muốn tiến tới một hệ thống xử lý rác hiện đại và bền vững” ông Dũng nhấn mạnh.
Thực tế, hiện có rất nhiều bãi chôn lấp đã đầy và buộc phải đóng lại, song quy trình đóng bãi chôn lấp vẫn là một vấn đề lớn hiện nay. Nếu không cẩn trọng, vấn đề ô nhiễm mà các bãi này mang lại sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các khu dân cư lân cận. Tuy nhiên, nếu chúng ta phát triển được công nghệ để thu khí metan từ những bãi chôn lấp sẽ tạo cho các địa phương có những nguồn thu để sử dụng vào áp dụng công nghệ.
Theo GS.TS Nguyễn Hữu Dũng, vấn đề hạn chế tỷ lệ chôn lấp là một nhiệm vụ chiến lược. Bởi, bây giờ quỹ đất tại các đô thị đều không còn ngay cả những tỉnh miền núi để tìm vị trí thay thế cũng rất khó. Cho nên trong công tác quy hoạch cần phải chú trọng đến vấn đề này. Theo đó, các tỉnh đều phải có quy hoạch quản lý chất thải rắn. Thực tế, không phải địa phương nào cũng có đầy đủ, đồng bộ các nhà máy xử lý để thực hiện phân loại rác tại nguồn. Do đó, cần có cơ chế tận dụng việc các địa phương sau sáp nhập để có quy hoạch hệ thống hạ tầng thu gom và xử lý chất thải rắn.
Cẩn trọng khi áp dụng công nghệ nước ngoài
Hiện nay, các địa phương đã bắt đầu áp dụng các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, ủ làm phân vi sinh hay tái chế, song thực tế việc triển khai còn hạn chế. Một phần nguyên nhân là do chưa có phân loại rác tại nguồn, khiến chất lượng đầu vào cho các nhà máy tái chế và sản xuất phân vi sinh rất thấp.
Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và công nghiệp Việt Nam - GS.TS Nguyễn Hữu Dũng cho biết, đã khảo sát 39 nhà máy sản xuất phân vi sinh và nhận thấy, dù một số nhà máy có công nghệ khá tốt, nhưng phân thành phẩm lại không đáp ứng tiêu chuẩn sử dụng cho nông nghiệp vẫn lẫn nhiều mảnh thủy tinh và cả chất thải nguy hại. Nguyên nhân chủ yếu là rác thải không được phân loại ban đầu.

GS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và công nghiệp Việt Nam phát biểu tại tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức, sáng 23/9.
Đáng nói, để làm được điều đó cần phải phát triển công nghệ theo hướng đổi mới sáng tạo và đặc biệt là theo xu hướng kinh tế tuần hoàn. Trong quy hoạch các khu công nghiệp hiện nay cần có cơ chế hỗ trợ các công nghiệp sinh thái. Theo đó, những nguồn phát thải của nhà máy này sẽ thành nguyên liệu của một nhà máy khác trong khu công nghiệp để tạo tạo thành liên hoàn và làm yếu tố về tái chế chất thải để đảm bảo cho việc thực hiện kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải tối đa.
Thực tế, công nghệ tái chế ở nước ta hiện nay rất thấp. Đơn cử, về chất thải nhựa, hiện tỷ lệ công nghệ tái chế chỉ chiếm 10%. Bên cạnh đó, cần phải có những đột phá trong việc đầu tư cho sáng tạo công nghệ về phân loại, thu gom và xử lý rác. Cùng với đó, cần có cơ chế chính sách hỗ trợ đơn giá sản phẩm, bởi nhà máy điện rác phải có chi phí xử lý chất thải hoặc các lò đốt rác để thành điện rác.
Về ứng dụng công nghệ nước ngoài, hiện nay rất nhiều doanh nghiệp cũng muốn chuyển giao các công nghệ cho Việt Nam. Hiệp hội Môi trường đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam cũng đang tổ chức nhiều hội thảo từ những đoàn khảo sát để xem những mô hình nào có thể áp dụng cho Việt Nam. “Theo tôi không có một mô hình nào có thể áp dụng đại trà mà phải tùy theo điều kiện của từng địa phương và điều kiện của Việt Nam. Bên cạnh đó, tôi nghĩ đặc trưng của rác Việt Nam khác với các công nghệ xử lý châu Âu vì rác Việt Nam có thành phần hữu cơ cao, độ ẩm cao do điều kiện khí hậu. Vì vậy, việc chuyển giao công nghệ cho Việt Nam phải có tiêu chí về lựa chọn công nghệ để phù hợp với từng địa phương”, GS.TS Nguyễn Hữu Dũng nhấn mạnh.
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/nguy-hai-tu-rac-thai-ran-10387729.html