Nguyễn Đức Sơn khác với mây
Có lẽ thi sĩ Nguyễn Đức Sơn không đoán được cái đồi Phương Bối nơi ông ẩn cư lại thu hút khách du lịch như giờ này. Sự nghiệp, cuộc đời ông và vợ con thật khó hình dung đối với nhiều người, ngay cả tìm trong tiểu thuyết...
Phương Bối ngày về
Bảo Lộc mưa lâm thâm. Những cung đường xa ngái. Đồi thông Phương Bối vẫn dập dìu. Du khách đông vui ngay từ dưới chân đồi, nơi con gái của cố thi sĩ Nguyễn Đức Sơn mở quán cà phê tuyệt trần dưới tán thông vi vu mơ màng.

Bà Nguyễn Thị Phượng (vợ thi sĩ Nguyễn Đức Sơn) tại đồi Phương Bối.
Những ngày văn khoa Đà Lạt, chúng tôi đọc và yêu cuồng nhiệt thơ Nguyễn Đức Sơn. Chúng tôi mường tượng đồi Phương Bối xa xôi heo hút nhưng vẫn lung linh huyền thoại về lão thi sĩ kỳ dị, sống kiêu bạc “tự cung, tự cấp” cùng vợ con.
Rồi chúng tôi cũng đến được Phương Bối, nhờ một người bạn Bảo Lộc dẫn đường. Do không quen biết và ngại ngần “kính nhi viễn chi”, chúng tôi chỉ được nhìn thấy dáng ông từ xa, khắc khổ, nâu sòng. Thấp thoáng bên căn nhà gỗ tạm bợ, chênh vênh giữa đồi thông tranh tối tranh sáng. Thế nhưng chúng tôi vô cùng thỏa mãn.
Về đọc thêm tư liệu cuộc đời, tác phẩm Nguyễn Đức Sơn, rồi “nổ” vang trời với chúng bạn. Quả thực, trong tâm tư mỗi chúng tôi đều có một Phương Bối miên man, tròn đầy, thân thuộc của riêng mình.
Đầu năm 2025, nhà thơ Thu Nguyệt (Chủ Vườn thiền Thong Dong, xã Lộc Châu, Bảo Lộc) làm hướng dẫn viên đưa chúng tôi trở lại thăm Phương Bối. Vườn thiền Thong Dong cách đồi Phương Bối chỉ đôi cây số. Cùng cái duyên “bỏ phố về rừng”, chị Thu Nguyệt tỏ ra vô cùng tâm đắc, am tường nhiều việc thuộc về Phương Bối.
Chị kể: ông Sơn cần mẫn nâng niu ươm trồng từng cây thông nhỏ. Không quản nắng mưa giá buốt đói no. Ông dữ dằn đuổi thẳng cổ những kẻ có ý định làm hại đến Phương Bối. Đuổi đến khi kẻ đó ra khỏi... biên giới Phương Bối. Vậy mà chẳng xuể. Nhiều người ở đây ngày trước có lệ đến mùa Noel là đi chặt nguyên cây thông về chưng. Cây thông càng non tơ càng... ưng ý!
Nguyễn Đức Sơn dắt díu vợ con bỏ phố lên rừng Phương Bối từ năm 1979. Vợ chồng ông có tất cả 9 người con, phần đông sinh ra lớn lên tại khu đồi này. Cái khổ cái khó của gia đình ông giữa nơi thâm sơn cùng cốc thì có thể làm được phim nhiều tập. Thế nhưng tất cả đều bị khuất phục trước cá tính sắt đá, ngang nhiên, kỳ dị của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn.
Bằng một tình yêu thiên nhiên máu thịt, kỳ nhân Nguyễn Đức Sơn đã chăm trồng nên dáng nên hình hàng vạn cây thông. Vì thế ngoài bút danh Sao Trên Rừng, ông còn được “giang hồ” trao biệt danh Sơn Núi; cũng là một cách phân biệt với Sơn Biển (thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn) ở Phan Thiết.
Ở đồi Phương Bối, nhà thơ Thu Nguyệt dẫn chúng tôi thăm căn nhà gỗ của bà Phượng đang ở cùng các con. Tiếp đến là căn nhà gỗ thông nơi khi xưa Sơn Núi thường ở riêng một mình. Căn nhà cỡ chục mét vuông đang xuống cấp, mối mọt đùn phía ngoài cánh cửa chính, cửa sổ lá sách. Nhìn qua cửa sổ, đồ đạc khi ông sống vẫn còn khá nguyên vẹn. Như thi sĩ vừa mới ra ngoài thăm nom rừng thông…

Bia mộ thi sĩ Nguyễn Đức Sơn tại Phương Bối khắc chân dung và 3 câu thơ lừng danh của ông: "Ta đến đây/ Khác với mây/ Là ở lại".
Bà Nguyễn Thị Phượng (vợ thi sĩ Nguyễn Đức Sơn) đã ngoài bảy mươi nhưng nét đẹp nền nã vẫn còn phảng phất. Bà chỉ cười và “cảm ơn” trước đám khách đông nghịt. Một số người gửi quà sau khi viếng thi sĩ chồng, bà cúi đầu trân trọng. Phía trên khu đồi, con bà có dựng mấy căn gác gỗ lịch lãm, dành cho khách ở lại đêm. Bà Phượng giới thiệu mấy cây hoa hướng dương trước nhà là giống xuất xứ từ Pháp.
Gặp bà, tôi nhớ một đoạn trong bút ký “Người đàn bà trên đồi cỏ” của Đào Hiếu: “…Nguyễn Đức Sơn lấy cái mền cột túm hai đầu, luồn một cành cây vào giữa. Cùng với Nguyễn Đức Vân, hai cha con cáng mẹ băng rừng ra phố. Vừa chạy vừa khóc. Gai tre và cành cây cào xước mặt. Máu lẫn với nước mắt. Nhưng trời vẫn còn thương cha con chàng thi sĩ ngông cuồng. Phượng đã tỉnh lại. Ba hôm sau Trịnh Công Sơn từ Sài Gòn lên ghé bệnh viện Bảo Lộc. Sơn Núi hỏi:
- Mày lên đây làm gì?
Sơn nhạc sĩ đáp:
- Thăm Phượng. Sao nỡ hành hạ người ta đến vậy?
“Sơn núi” bỏ đi. Trịnh Công Sơn ở lại với các con của Phượng. Có lẽ hôm đó là một ngày của năm 1982. Tôi không biết và các con của Phượng cũng không biết chính xác là ngày và tháng nào. Trịnh Công Sơn đã tặng cho gia đình Nguyễn Đức Sơn một số tiền khá lớn. Nó đã cứu Phượng và giành giựt Phượng khỏi tay tử thần…”.

Quán cà phê do con gái thi sĩ Nguyễn Đức Sơn mở dưới chân đồi thông Phương Bối.
Ông Nguyễn Đức Sơn làm đám cưới với bà Nguyễn Thị Phượng năm 1967 tại Thủ Dầu Một, Bình Dương.
Kỳ nhân ở lại
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn được xưng tụng là một trong 3 kỳ nhân của làng văn nghệ (cùng với Bùi Giáng và Phạm Công Thiện); một trong “tứ trụ thi ca” của miền Nam (cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên).
Nhiều người mộ điệu thơ Nguyễn Đức Sơn bởi kiệm lời, nén ý, mờ tỏ khó lường. Lạ hóa những điều quen thuộc. Sờ nắm những khái niệm vô hình. Như ông tả cô liêu: “Trưa đứng một mình đợi ai lên/ Đất trời đâu có dưới và trên/ Đồi cao ổi sót rụng một trái/ Dòi ăn một bên ta một bên” (Cuối thu ở Phương Bối). Như khi sắp hai mươi: “Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi/ Thấy hay hay nhưng làm sao cười/ Như chuyện lớn lên rồi có vợ/ Cuối đời về đất lạnh nằm xuôi” (Bọt nước).
Như ông buột miệng: “Đừng đụng em/ Em đẻ” (Cho mà xem); “Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người/ em chưa đái mà hồn anh đã ướt” (Vũng nước thánh); Như là tự sự: “kiêu dũng nhất là con đường không đích/ ta cắm đầu lao thẳng tới hư vô” (Khát vọng); “Rồi mai huyệt lạnh anh về/ Ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa” (Tịch mạc); “Đời sau người có thương ta/ Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi” (Nhắn).
Như viết về con: “Nắm tay lật úp đi con/ Co thân tròn trịa như hòn đá lăn/ Muốn cho đời sống không cằn/ Tập cho quen mất thăng bằng từ đây” (Nhìn con tập lật); “Cho con cha hứa một lời/ Đuổi mây thiên cổ rong chơi suốt ngày/ Thu nào tóc bạc òa bay/ Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già” (Mai kia); “Khuya dậy hỏi đàn con nheo nhóc/ Ở đâu mà lóc thóc tới đây” (Nửa đêm thức dậy hỏi con). Như hết cỡ giản dị: “đầu tiên tôi thở cái phào/ bao nhiêu phiền não như trào ra theo/ nín hơi tôi thở cái phèo/ bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không” (Một mình nằm thở đủ kiểu trên bờ biển)…
Về nghề sáng tác, nhà thơ Nguyễn Đức Sơn từng tâm tình trên báo: “Tôi viết vì bị thúc đẩy bởi một lực ở đằng sau và được thu hút bởi một lực ở phía trước. Đó là những ma lực làm tôi cảm khoái huyền diệu xa xăm. Thứ cảm khoái này kéo dài được chứ không ngắn như nhục cảm. Viết được một đoạn hay tôi đi lên đi xuống thưởng thức và khoái chí. Nên tôi nghĩ rằng sáng tác cho mình trước hết”.
Ở trang bìa tập thơ “Đêm nguyệt động”, Nguyễn Đức Sơn lý giải thêm về lối đời mình: “Một buổi chiều trốn học lang thang trên bờ biển Nha Trang thời niên thiếu, tác giả suýt nổi cơn điên khi trực nhận mãnh liệt cái quá ư ngắn ngủi của kiếp sống và từ đó đâm ra khật khùng cho đến nay”…
Kỳ sĩ Nguyễn Đức Sơn đã mất 5 năm (2020). Nếu còn sống, nay ông 88 mùa xuân xanh. Và ông đã ở lại như câu thơ tạc trên bia mộ tại Phương Bối: “Ta đến đây/ Khác với mây/ Là ở lại”.
Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/nguyen-duc-son-khac-voi-may-i772192/