Nguyễn Hữu Cảnh và công cuộc khai phá 'đất phương nam'
Đối với vùng đất Đồng Nai - Gia Định nói riêng và Nam Bộ nói chung, Nguyễn Hữu Cảnh có công lao hàng đầu, là bậc khai quốc công thần.
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai. Tại đây, Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến hành các công việc đầu tiên thiết lập nền hành chính ở Nam Bộ. Trong công cuộc thiên di tìm về vùng đất mới ở phương nam của người Việt, Nguyễn Hữu Cảnh là người có công đầu, công lao to lớn đối với đất nước và dân tộc.
Trước khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn thiết lập nền hành chính ở Nam Bộ, trên vùng đất Nam Bộ đã có nhiều người Việt sinh sống từ trước đó. Lịch sử đã ghi nhận rằng những lưu dân người Việt đầu tiên là những người đi theo bà Ngọc Vạn khi bà về làm hoàng hậu Chân Lạp năm 1620. Từ đó, số người Việt từ vùng Thuận - Quảng vào lập nghiệp và sinh sống ở lưu vực sông Đồng Nai mỗi ngày một đông thêm. Năm 1623, chúa Nguyễn đã cho lập các trạm thu thuế đầu tiên ở Sài Gòn. Năm 1679, nhóm phản Thanh phục Minh do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch đã vào khai khẩn nhiều vùng đất ở Nam Bộ.
Như vậy, có thể thấy, trước khi Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập nền hành chính ở Nam Bộ, trên danh nghĩa, vùng đất này đã thuộc về người Việt và có rất đông người Việt, người Hoa và các dân tộc bản địa cùng nhau khai phá và chung sống hòa bình. Vâng mệnh chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh đã theo đường biển, ngược dòng sông Đồng Nai đến ở tại Cù Lao Phố, một cảng sầm uất nhất miền Nam bấy giờ. Từ đấy, Nguyễn Hữu Cảnh đã ra sức ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng.
Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép: Nguyễn Hữu Cảnh đã “lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có 2 ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng, dưới quyền quan Ký lục) và Lại ty (coi việc tài chính, do quan Cai bộ đứng đầu). Quân binh thì cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng ngàn dặm, cho chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở vô, đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh, điền và lập bộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Hoa ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch”.
Đại Nam thực lục chép Nguyễn Hữu Cảnh: “Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức dinh Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những người dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở Đông. Thiết lập xã thôn, phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dung, làm sổ dinh điền. Lại lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập làm xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ của ta”.
Theo cuốn Nguyễn Hữu cảnh và công cuộc khai phá miền Nam nước Việt của tác giả Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền, tổ tiên Nguyễn Hữu Cảnh vốn người Gia Miêu Ngoại Trang, Tống Sơn (nay thuộc Hà Trung, Thanh Hóa). Ông là cháu 9 đời của Nguyễn Trãi. Tổ tiên theo Nguyễn Hoàng vào trấn ải Thuận Hóa. Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650 tại vùng đất nay là thôn Phước Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc với cha là danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Sinh ra trong một gia đình dòng dõi tướng soái, trưởng thành trong bối cảnh đất nước chia cắt bởi cuộc Trịnh - Nguyễn phân tranh nên ông chăm lo luyện tập võ nghệ từ nhỏ. Ngoài 20 tuổi, Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn phong chức Cai cơ (một chức võ quan lớn) với những công trạng lập được trong chiến trường Trịnh - Nguyễn. Do lập nhiều công lao nên ông lần lượt được chúa Nguyễn phong nhiều chức vụ quan trọng. Trước năm Nhâm Thân 1692, ông đã được phong tước là Lễ tài hầu (hoặc Lễ thành hầu). Năm Nhâm Thân 1692, ông được phong làm Thống binh cầm quân dẹp loạn Chiêm Thành, bình định biên cương. Năm Giáp Tuất 1694, ông được thăng làm Chưởng cơ, lãnh chức Trấn thủ dinh Bình Khang.
Tháng 4.1700, sau khi đi kinh lý vùng đất biên cương, Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về đóng ở cồn Cây Sao (sử cũ gọi Cù lao Sao Mộc hay Tiêu Mộc hoặc châu Sao Mộc, sau dân địa phương nhớ ơn ông, nên gọi là Cù Lao Ông Chưởng, nay thuộc Chợ Mới, An Giang). Tại đây ông bị bệnh và qua đời. Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép: “Ở đây một thời gian ông bị "nhiễm bệnh, hai chân tê bại, ăn uống không được. Gặp ngày Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch) ông miễn cưỡng ra dự tiệc để khuyến lạo tướng sĩ, rồi bị trúng phong và thổ huyết, bịnh tình lần lần trầm trọng. Ngày 14 ông kéo binh về, ngày 16 đến Sầm Giang (Rạch Gầm, Mỹ Tho) thì mất. Khi ấy chở quan tài về tạm trí ở dinh Trấn Biên (Biên Hòa), rồi đem việc tâu lên, chúa Nguyễn Phúc Chu rất thương tiếc, sắc tặng là Hiệp tán Công thần, thụy là Trung Cần, hưởng 51 tuổi. Người Cao Miên lập miếu thờ ông ở đầu châu Nam Vang. Nơi cù lao ông nghỉ bệnh, nhân dân cũng lập đền thờ, được mạng danh là Cù lao ông Lễ. Còn chỗ đình quan tài ở dinh Trấn Biên cũng lập miếu thờ” (nay là đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Biên Hòa, Đồng Nai).
Nguyễn Hữu Cảnh là bậc công thần hiếm hoi được ban và phong rất nhiều tước hiệu. Chúa Nguyễn đã truy tặng ông là Hiệp tán công thần, đặc tiến chưởng Dinh, Tráng hoàn hầu. Đời Minh Mạng, ông được truy tặng Khai quốc công thần Tráng Võ tướng quân Vĩnh An hầu. Các đời Minh Mạng và Thiệu Trị truy phong ông là Thượng đẳng thần.
Đối với vùng đất Đồng Nai - Gia Định, Nguyễn Hữu Cảnh là bậc Khai quốc công thần. Để tưởng nhớ công đức của Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, rất nhiều nơi nhân dân lập đền thờ hoặc lập bài vị ông, như ở Nam Vang (Campuchia), Quảng Bình, Quảng Nam, Cù Lao Phố (Biên Hòa), đình Minh Hương Gia Thanh (quận 5, TP.HCM), Ô Môn (Cần Thơ). Lễ công từ đường (Châu Đốc, An Giang) và nhiều nơi thờ tại An Giang cũng như các địa phương khác.