Nhà khoa bảng hiển đạt khoa danh cả hai hàng văn võ
Đứng thứ 3 trong số 5 Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất (1598), Hoàng giáp Lê Bật Tứ hiển đạt ở hàng văn quan, làm tới chức Tham tụng.
Không chỉ vậy, ông còn nhiều lần đem quân dẹp loạn, được đánh giá là phương viên tiết tháo, mưu lược tế thế kinh bang.
Mồ côi vẫn quyết đỗ đạt
Hoàng Giáp Lê Bật Tứ sinh năm 1562, tại thôn Đoài xóm Bính, Cổ Định, Tân Ninh nay là thị trấn Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa) trong một dòng họ khoa bảng. Tên hiệu của ông là Vương Toàn, thụy là Hòa Nghĩa. Từ cụ thủy tổ Lê Duy Đàn đến ông là 11 đời thì có 8 đời đỗ Tiến sĩ và rất nhiều đời làm đại quan.
Theo bài minh cùng bài ký ghi chép trên bia đền thờ Lê Bật Tứ, thì tổ đời thứ 9 của Lê Bật Tứ là Hứa Duy Đàn, vì tránh kỵ húy dưới triều Trần mà đổi thành họ Lê. Cụ tổ đời thứ 8 là Duy Thúc, triều nhà Trần thi đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Ngự sử Trung thừa Nhập nội Hành khiển. Người em tổ đời thứ 8 là Duy Xứ thi đỗ Tiến sĩ, em rể ông tổ đời thứ 8 là Lê Thân cũng thi đỗ Bảng nhãn.
Tổ đời thứ 7 tên là Vô Trụ đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức An Phủ sứ lộ Lạng Sơn. Tổ đời thứ 6 tên là Hanh Phủ đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Chuyển vận sứ huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì). Cha của Lê Bật Tứ tên húy là Tốn, sau được phong tặng chức Tả Thị lang.
Mẹ là Nguyễn Thị Oánh, được phong Diên Hựu Tự phu nhân. Ông có 5 anh em, anh cả được ban Giám nguyên, làm quan đến chức Tá lý công thần, anh thứ 2 do học rộng mà làm quan đến chức Đại lý tự Thiếu khanh, chị gái trưởng là Thị Lan, thứ là Thị Luyện đều là người có đức hạnh, Lê Bật Tứ là em út trong nhà.
Lúc mới sinh được 7 ngày thì cha của Lê Bật Tứ qua đời, mẹ cùng người anh thứ hai đưa về quê ngoại ở làng Lưu Xá, huyện Kim Bảng, xứ Sơn Nam nuôi dưỡng. Đến năm 8 tuổi thì mẹ ông cũng qua đời. Đói khổ mà vẫn nhẫn nại, Lê Bật Tứ một lòng không sờn vượt qua khó khăn, lấy việc chăn trâu cắt cỏ làm kế sinh nhai.
Khi anh cả từ quê ra, đã nuôi dậy các em. Tự mình lựa chọn thầy giỏi đưa em đến học ở Bạch Hạc, Nhân Nghĩa, Nhật Chiêu, Mỹ Huyền, Động Cứu. Đến tuổi trưởng thành Lê Bật Tứ tham gia cả hai lần thi Hương năm 1584 ở Sơn Tây và 1592 ở Lỗ Hiền, Thanh Hóa đều đỗ nhất nhì cả hai kỳ thi này.
Đến năm Mậu Tuất (1598), vua Lê Thế Tông mở khoa thi Hội ở Cẩm Vân Đình (Nam Định ngày nay). Lê Bật Tứ tham gia kỳ thi và đỗ thứ 3 trong số 5 Tiến sĩ vào thi Đình.
Bài ký của tấm bia Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất (1598) đã chỉ rõ đây là khoa thi thứ 2 dưới thời Lê trung hưng. Bia cũng ghi lại đầy đủ thành phần của ban giám khảo là các vị đại thần đầu triều như: Đề điệu là Thái úy Ngạn quận công Trịnh Đỗ, Tri cống cử là Ngự sử đài Đô Ngự sử Lê Trạc Tú, Giám thí là Lễ bộ Tả Thị lang Ngô Tháo, Đại lý tự khanh Trần Phúc Hựu là quan độc quyển. Hoàng thượng đích thân định thứ tự cao thấp.
Ông đã vượt qua rất nhiều thí sinh để là một trong 5 người có tên trên bảng vàng, bia đá của kỳ thi Đình năm Mậu Tuất (1598). Những người được khắc tên trên bia gồm: Nguyễn Thứ, Nguyễn Duy Thì, Lê Bật Tứ, Nguyễn Khắc Khoan và Nguyễn Giới (Kiệm).
Hiển đạt hai hàng văn - võ
Theo bài minh trên bia đền thờ Lê Bật Tứ, sau khi thi đỗ, vào tháng 10 (1598) ông bắt đầu được nhận chức Hàn lâm Hiệu lý. Tháng 6 năm Canh Tý (1600), thăng làm Hộ khoa Cấp sự trung vâng đến huyện Đan Phượng đo đạc đất trồng dâu nuôi tằm.
Gặp lúc bọn Phan Ngạn nổi loạn, ông dâng kế sách khuyên vua, rồi đến phủ Trường An bái yết, dùng ngựa khỏe hộ tống theo sau. Được vâng nhận chức Bồi tụng, tham gia bàn bạc chính sự định yên xã tắc.
Năm 1601, Lê Bật Tứ lại được thăng Đô cấp sự trung ở bộ Lại, được vâng sai Giám thí trường thi Kinh Bắc, năm sau nhận chức Giám khảo trường thi Thiên Trường, chọn được nhiều kẻ sĩ. Năm thứ 5 (1604) năm Giáp Thìn thăng Ngự sử đài kiêm Đô Ngự sử, năm Bính Ngọ lại được vâng sai làm Chánh sứ đoàn sang nhà Minh tạ ơn.
Năm 1608, sau khi đi sứ về lại thăng chức Tả Thị lang bộ Lại, đảm nhiệm trọng trách soạn đặt các chính sách kinh tế vật dụng ăn ở để yên lòng vua. Đương lúc đảm nhiệm việc nắm giữ của cải trong nước, có thể lấy mưu chế mưu, đưa thuyền ra Quảng Yên đập tan giặc để yên mặt Bắc. Định rõ thuế khóa ở nội phủ Yên Trường để tăng thêm sự lớn mạnh cho đất nước.
Năm 1610 do tình hình cụ thể của đất nước lúc đó ông dâng khải điều trần lên chúa Trịnh đại ý nói: Định ngôi thế tử và giao cho giữ binh quyền để cố kết lòng dân; Xử trí các cường phiên - các tù trưởng vùng xa được hưởng thế tập cha truyền con nối - chuyên quyền một trấn để thống nhất chế độ. Trịnh Tùng tuy khen đề nghị của ông nhưng lại không làm theo.
Năm Mậu Tuất 1618, Lê Bật Tứ cùng với Ngô Trí Hòa dâng khải điều trần 6 việc: Xin sửa đức chính để cầu mệnh trời giúp; Xin đè nén kẻ quyền hào để nuôi sức dân; Xin cấm phu dịch phiền hà để đời sống của dân được đầy đủ; Xin bớt xa xỉ để của dân được thừa thãi; Xin dẹp trộm cướp để dân được ở yên; Xin sửa sang quân chính để bảo vệ tính mạng cho dân. Trịnh Tùng khen ngợi ông và làm theo.
Năm 1619, Lê Thần Tông lên ngôi vua, ông được thăng làm Thượng thư Bộ Binh, Lê Bật Tứ được mời vào phủ Chúa làm Tham tụng giúp Triết vương Trịnh Tùng điều khiển đất nước, sau lại giúp Trịnh Tráng củng cố xây dựng vương triều. Năm 1623, ông được phong Thiếu Bảo.
Năm 1627 sau khi tuần thú ở phía Nam về, khi qua quê hương tạm đóng quân lại nghỉ ngơi. Nhân đó để giúp làng tránh lũ lụt hàng năm, do nước ứ đọng ở sông Lãng chảy không kịp, cụ đã triển khai cho đào sông nhân tạo nối sông Lãng chảy sang sông Hón gọi là mau Đan lồ, chảy suôi theo sông Nổ Hẻn rồi chảy vào sông Hoàng Giang ra biển…
Ngoài ra, Lê Bật Tứ còn xây cho làng ở Cồn Chợ có lớp học để con em có chỗ học hành, kết thúc hàng nghìn năm không có trường sở ở làng xã, trẻ lớn lên học tại quê mà không phải đi học tại nơi khác.
Ngày 15 tháng 10 âm lịch năm 1627, Lê Bật Tứ đột ngột qua đời khi đang tại nhiệm. Vua Lê Thần Tông vô cùng thương tiếc, triều đình nghỉ triều phục 3 ngày, dùng lễ trâu rượu để kính tế, gia phong cho tước Quận công, ban cho tiền cổ 50 quan rồi sai thủy quân hộ giá đưa về núi quê ông an táng, hành lễ trọn vẹn trước sau để biểu thị xót thương đối với bề tôi, lại cử các môn quan thừa dụ, nhạc quan, thị vệ, vệ môn đến ban dụ tế.
Xứng bậc Tiến sĩ, trung nghĩa ba triều
Theo bài minh trên văn bia tại đền thờ Lê Bật Tứ thì lời dụ của triều đình dành cho vị Hoàng giáp tài năng có đoạn như sau: Bậc cựu thần công cao ở quốc gia, khi sống thì được sủng dụng, lúc chết thì điếu lễ vỗ về, toàn vẹn giữ trọn ơn nghĩa trước sau.
Lê tướng công là bậc phương viên tiết tháo, mưu lược tế thế kinh bang, nghĩa lý thấm đượm lòng người, chí học hành thấu hiểu đạo thánh, văn chương xuất chúng, hiển đạt khoa danh cả hai hàng văn võ, tên tuổi nổi danh, trải qua nhiều triều hiển đạt, lại càng sánh như các bậc tể tướng thời Đường, tham gia giúp đỡ nhà vua nơi màn chướng, qui củ rõ rệt như các lương tướng thời Tống, lại thêm tốt đẹp hòa mục có công lao với xóm làng, công thành sự nghiệp giúp triều đình nổi rõ như sao bắc đẩu, lúc sống tước vị cao quí, mong cho tướng công được hưởng phúc lành của đất nước.
Nào ngờ chỗ dựa tin cậy mới được tạo dựng đã vội ra đi, thế là sai mệnh quan đến chính tế Tướng công, điếu phúng kính dâng, lễ nghi vỗ về, như thế cũng là an ủi tiếng thơm vĩnh hằng vậy. Lại cấp cho giáp một, giáp hai, giáp ba trong xã cùng ban lộc điền. Lại chuẩn ý cho con trưởng cùng các con cung kính phụng thờ và được ơn sủng thịnh dầy.
Nay xét về gia đình tướng công, tất cả con cháu được phân định ban phong tập ấm theo luật của triều đình. Khả Giáo do là Nho sinh trúng thức được nhận chức Tư vụ ở bộ Lại, thăng lên Viên ngoại lang. Năm Kỷ Mùi (1619) đi thi Hội trúng Tam trường, thăng Bản bộ Lang trung, tước Xuân Đài tử. Lại được vâng cấp lộc điền ở hai xã. Con rể là Hứa Lập, do là Giám sinh nên được nhận chức Tri huyện…
Lại xét gia phả dòng họ Lê Bật Tứ vốn có nguồn gốc nho quan, từ thủy tổ trở lại luôn có các quan kế nối. Tương truyền tướng công thuở nhỏ khổ cực, về sau hiển đạt, há lại chẳng phải thiên tướng trời định giao việc cho người ắt nên trước tiên bắt phải khổ cực để cho gân cốt được khỏe mạnh đảm nhận công việc mai sau.
Khoa danh được đăng cao, đảm nhận công việc dám nói thẳng nói thật, giúp vua thương dân là người anh tài, đời xưng là bậc Tiến sĩ được đông đảo quần chúng nhớ về ơn huệ, công danh tài chí nổi danh khắp thiên hạ, trung nghĩa khắp cả ba triều, chức vụ vượt hơn các quần thần, công lao để lại hậu thế là ngôi sao bắc đẩu của trời Nam được vinh hiển thịnh dầy, ấy cũng là do tổ tiên thịnh đạt luôn làm việc thiện mà vun trồng cây đức.
Năm 1998, đền thờ Hoàng giáp Lê Bật Tứ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Năm 2022, nhân kỷ niệm 460 năm sinh và tưởng niệm 395 năm ngày mất của Hoàng giáp Lê Bật Tứ, chính quyền thị trấn Nưa và hội đồng gia tộc họ Lê Bật đã trình đề nghị khảo sát đưa vào tôn tạo di tích chống xuống cấp.