Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư: Người chép sử nối hai bờ thế kỷ

Ai gặp ông, lỡ lau chau câu chúc quen miệng 'Chúc cụ sống lâu trăm tuổi', e rằng quá trớn. Mà chẳng phải 'e rằng' nữa, quá trớn thiệt. Mùa xuân này, nhà nghiên cứu có chòm râu bạc phơ và nụ cười hiền triết như ông Bụt đại thọ 105 tuổi. Ở tuổi ấy nhưng trên bàn làm việc của ông vẫn ngổn ngang đề cương 10 cuốn sách mà ông đang cặm cụi hoàn thành...

Tôi đến thăm nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư khi ông vừa trở về TP Hồ Chí Minh sau chuyến đi nhận Giải thưởng Sách quốc gia 2024 diễn ra cuối tháng 11 tại Hà Nội. Bộ sách 2 tập “Gia Định - Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh: Dặm dài lịch sử (1698-2020)” (NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành) mà ông dày công nghiên cứu vinh dự được trao tặng giải A.

Năm ngoái, bộ sách này giúp ông được vinh danh tại Giải thưởng Khoa học Trần Văn Giàu. Với Giải thưởng Sách quốc gia, đây là lần thứ hai ông nhận giải cao nhất. Năm 2018, cuốn “Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859-1954)” cũng đoạt giải A.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư nhận giải A Giải thưởng Sách quốc gia 2024.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư nhận giải A Giải thưởng Sách quốc gia 2024.

Ai cũng đinh ninh rằng, ở cái tuổi hơn bách niên, lão học giả bình dân ra Hà Nội nhận giải bằng máy bay. Nhưng không, ông bảo hễ đi đâu xa, ông lại khoái tàu hỏa. Không phải vì ngại tốn tiền, mà đơn giản chỉ có ngồi trên tàu hỏa, ông mới được nhìn ngắm kỹ dặm dài đất nước. Cả cuộc đời nghiên cứu của ông gắn liền với từng nắm đất Tổ quốc, cây cỏ quê hương. Trang sách ấy không chỉ là tên đường, tên làng mà còn là hồn cốt lịch sử mấy ngàn năm văn hiến.

Thuở nhỏ, cậu con trai thứ tư của ông cai tổng Nguyễn Đình Khai đã sớm mê nghiệp bút nghiên, ham đọc sách sử. Cha ông tuy là cai tổng làng Chi Nê, huyện Thanh Chương, Nghệ An nhưng vì liêm khiết nên nhà cũng ăn cơm độn khoai như bao người làng. Nhà nghèo, Đình Tư phải nghỉ học ba, bốn bận để về chăn trâu, cắt cỏ. Lên học Trường Trung học tư thục Thuận An ở Vinh, ông đành phải nghỉ học vì nhà không gom nổi 10 đồng bạc để trả tiền nhà trọ và học phí.

Thấy cậu học trò sáng dạ phải nghỉ ngang, thầy hiệu trưởng mủi lòng kêu gọi giáo chức trong trường quyên góp mỗi người một ít cho trò Tư tiếp tục theo học. Mới được 2 tháng, có người mách lẻo với thầy rằng cha Tư làm cai tổng. Mà thời đó, ai cũng mặc định, nhà cai tổng thì giàu nứt đố đổ vách. Than nghèo kể khó ai tin. Việc quyên góp tan rã, trò Tư đành nghỉ hẳn. Chỉ khi cậu tìm được công việc gia sư thì nghiệp đèn sách mới tạm yên.

Bấy giờ, cậu thường lui tới nhà thầy giáo mượn sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim và “Việt Nam văn học sử yếu” của Dương Quảng Hàm. Hai cuốn sách này đã gieo những hạt mầm đầu tiên để ông say mê với con đường nghiên cứu sử học về sau. Chính tư liệu trong hai tác phẩm cùng gia phả dòng họ về ông tổ Nguyễn Xí đã giúp Nguyễn Đình Tư viết nên cuốn sách đầu tay “Nguyễn Xí”. Cuốn sách do NXB Tân Dân ấn hành năm 1943. Với một cậu học trò có sách được in, đó là niềm hãnh diện lớn lao. Nhờ sự khích lệ của ông chủ hiệu sách, Tư viết tiếp một lèo cuốn “Thù chồng nợ nước”, “Dì ghẻ con chồng”, “Nguồn sống”, “Vàng trong miệng đá”...

Không an phận với cuộc đời của một công chức địa chính, thời gian rảnh rỗi đi đây đi đó, cái thú viết sách về lịch sử và địa lý lại trỗi dậy trong ông. Nhận thấy bậc tiền nhân viết loại sách địa phương chí các tỉnh còn khá sơ sài, tư liệu còn nghèo nàn, ông nuôi tham vọng viết lại bộ địa phương chí với khối lượng tư liệu phong phú về tất cả lĩnh vực. Điều đặc biệt nhất chính là ông chủ trương “văn nghệ hóa” loại sách lịch sử - địa lý để tránh sự khô khan, giúp người đọc vừa thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, vừa có dịp giải trí thư giãn. Ông bắt đầu viết loại địa phương chí kiểu mới bằng cuốn “Non nước Phú Yên” ấn hành năm 1965.

Trong lời tựa dành cho cuốn sách này, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê không ngớt lời khen ngợi: “Đã lâu lắm rồi tôi chưa được đọc một cuốn địa phương chí nào đầy đủ như cuốn này: ngoài những mục thường thấy trong cuốn khác như địa lý, lịch sử, cổ tích, nhân vật, nguồn lợi kinh tế..., tác giả còn chép lại nhiều thống kê mới nhất về thời tiết, giáo dục, lại có sáng kiến ghi cả giọng nói và cách phát âm của dân quê tỉnh Phú Yên. Mà công phu đó còn nhỏ so với công phu ông chịu đi khắp từng miền, tiếp xúc với mọi tầng lớp dân chúng, gom góp những tài liệu sống như phong tục, ca dao, bài vè, câu thơ, điệu hát...”.

Lời khen này giúp nhà nghiên cứu tay ngang háo hức bắt tay vào cuốn địa phương chí tương tự: “Non nước Khánh Hòa”, “Non nước Ninh Thuận”, “Non nước Bình Thuận”, “Non nước Quảng Trị”...

Sau ngày thống nhất đất nước, bao nhiêu sách vở ông đành bán hết để kiếm mấy đồng chạy ăn từng bữa. Hồi đó, nghề sửa xe đạp đang thịnh, ông bèn mua bộ đồ nghề ra ngồi ở Cổng xe lửa số 7, Sài Gòn để vá cho khách qua đường. Những lúc rỗi rãi, không có khách, ông lại đem cuốn vở, cây bút ra kê trên hòm đồ nghề viết tiểu thuyết lịch sử “Loạn 12 sứ quân”. Hễ có khách hàng là sinh viên, ông nhờ họ xem hộ. Lời khích lệ của những độc giả đang ngồi trên ghế nhà trường khiến ông phấn khởi, viết một mạch 6 tập truyện theo lối chương hồi.

Chỉ khi các con tốt nghiệp đại học và đi làm, ông mới giã từ hòm đồ nghề để chuyên tâm với công việc nghiên cứu lịch sử. Nam bộ là mảnh đất ân tình mà ông gắn bó hơn nửa đời người nên sự nghiệp nghiên cứu của ông phần lớn dành cho vùng đất này. Đó là cuốn “Đường phố nội thành TP Hồ Chí Minh”, “Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ”, “Tiểu sử và hành trạng các nhà khoa bảng Hán học Nam Bộ”, “Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859-1954)”...

Ở tuổi 105, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn miệt mài bên bàn làm việc.

Ở tuổi 105, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn miệt mài bên bàn làm việc.

Cuốn “Gia Định - Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh: Dặm dài lịch sử” được coi là công trình đồ sộ và công phu nhất trong sự nghiệp của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư. Bộ sách gồm 2 tập, dày 1.700 trang, khái quát một cách hệ thống lịch sử vùng đất này từ năm 1698 đến 2020 trên mọi lĩnh vực từ tổ chức hành chính, an ninh quốc phòng cho đến kinh tế, văn hóa, giáo dục, tín ngưỡng... Cuốn sách giàu giá trị học thuật, ngồn ngộn thông tin và tư liệu. Đây được ví như tập cẩm nang dành cho tất cả mọi người, dùng để tra cứu bất cứ một điều gì, thuộc bất cứ một lĩnh vực nào liên quan đến thành phố mang tên Bác trên chiều dài lịch sử hơn 320 năm mà chẳng cần đi tìm đâu xa. Công trình được ông ấp ủ 20 năm mới hoàn thành.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư bảo rằng, đến tận bây giờ, ông coi như đã tạm mãn nguyện khi để lại cho đời hơn 60 đầu sách, góp chút mảnh sử cho hậu nhân tỏ tường. Ở tuổi này, ông chỉ mong trời cho mình còn khỏe để hoàn thành nốt 10 cuốn sách dở dang. “Hồi viết “Từ điển địa danh hành chính Nam bộ”, nhiều người bảo sao chưa có sách về miền Trung, miền Bắc nên tôi muốn viết tiếp đề tài này. Giờ, với tôi, thời gian quý hơn vàng. Nếu có gì hối tiếc, tôi chỉ tiếc mình mất quá nhiều thời gian để lo cơm áo gạo tiền. Nếu kinh tế dư giả, có lẽ tôi đã có thêm nhiều đầu sách ra đời” - ông tâm sự.

Hai điều làm ông tự hào nhất chính là tiếng nói nhỏ bé của mình đã góp sức giúp cái tên Hoàng Sa - Trường Sa được đặt cho đôi bờ kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, TP Hồ Chí Minh và ngày Giỗ Tổ Hùng Vương được Quốc hội chính thức công nhận là Quốc lễ. Nhìn những bạn trẻ xúng xính tà áo dài đón năm mới, ông vui lắm. Vì cả một đời ông gìn giữ và nâng niu tà áo dân tộc. Dịp tết nhất, lễ lạt hay sự kiện vinh danh long trọng, giao lưu gặp gỡ độc giả..., ông đều diện bộ áo dài khăn đóng màu điều. Giữa bao người, nhà nghiên cứu bình dân với nụ cười rung chòm râu bạc nổi bật như ông tiên trong truyện cổ tích. Mà, đời ông, có khác gì truyện cổ về một cậu học trò nhà nghèo...

Mai Quỳnh Nga

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/nha-nghien-cuu-nguyen-dinh-tu-nguoi-chep-su-noi-hai-bo-the-ky-i757518/