Nhà phê bình Điện ảnh Lê Hồng Lâm: Đà tăng trưởng của điện ảnh Việt Nam chưa dừng lại
Sau khoảng 1 tháng công chiếu, bộ phim 'Mưa đỏ' (đạo diễn Đặng Thái Huyền, Điện ảnh Quân đội Nhân dân sản xuất) đạt doanh thu hơn 650 tỷ đồng, trở thành bộ phim có doanh thu cao nhất lịch sử điện ảnh Việt Nam. Nhà phê bình điện ảnh Lê Hồng Lâm nhận định về nguyên nhân thành công của 'Mưa đỏ', tạo nên bước phát triển mới cho điện ảnh Việt Nam nói chung và thể loại phim chiến tranh cách mạng nói riêng.

PV: “Chung một dòng sông” (đạo diễn Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân) cùng “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” (đạo diễn Hải Ninh) từng gây tiếng vang khi đạt giải thưởng tại LHP Quốc tế Moscow, Liên Xô những năm 70 thế kỷ trước, anh chia sẻ gì về hai bộ phim kinh điển về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam này?
Nhà phê bình điện ảnh Lê Hồng Lâm: Đây là hai bộ phim mà tôi tuyển vào cuốn sách “101 Bộ phim Việt Nam hay nhất”. Cả hai đều có điểm chung là lấy con sông Bến Hải - vĩ tuyến 17 làm bối cảnh chính, ở hai thời điểm lịch sử khác nhau.
Chung một dòng sông” (1959) được xem là bộ phim truyện đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam.
Chuyện phim kể về mối tình của một đôi trai gái ở hai bờ sông Bến Hải, trong bối cảnh đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Kịch bản “Chung một dòng sông” (nhan đề ban đầu là “Tình không giới tuyến”) của biên kịch Cao Đình Báu được thông qua khá nhanh chóng. Ông cùng nhà biên kịch Đào Xuân Tùng chỉnh sửa lại kịch bản, đặt mối tình lãng mạn của đôi trai gái vào bối cảnh không khí sục sôi cách mạng thời đầu và đổi tên thành “Chung một dòng sông”. Đạo diễn Phạm Kỳ Nam, người vừa tốt nghiệp Học viện Điện ảnh Pháp trở về và có lẽ là đạo diễn đầu tiên của điện ảnh Việt Nam ở miền Bắc được đào tạo bài bản tại môi trường điện ảnh phát triển, nhận trọng trách dàn dựng “Chung một dòng sông” cùng với đạo diễn Nguyễn Hồng Nghi.
“Chung một dòng sông” có cốt truyện khá đơn giản, kể câu chuyện một mối tình bị ngăn cách bởi hoàn cảnh chính trị. Tuy bối cảnh và nghệ thuật dàn dựng khá thô sơ, “Chung một dòng sông” ít nhiều gây ấn tượng bởi diễn xuất của hai diễn viên chính Phi Nga và Mạnh Linh, những diễn viên đầu đàn của điện ảnh cách mạng Việt Nam…
13 năm sau, điện ảnh cách mạng Việt Nam tiếp tục chọn con sông Bến Hải làm bối cảnh chính, trong một bộ phim được dàn dựng công phu hơn. Dài hai tập với thời lượng gần ba tiếng đồng hồ và được thực hiện trong những ngày tháng gian khổ, giai đoạn quân đội Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam; “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” (1972) của đạo diễn Hải Ninh có tầm vóc của một thiên sử thi đồ sộ về cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
“Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” phần nào giống bộ phim đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam - “Chung một dòng sông”, đều chọn con sông Bến Hải và bà con nhân dân ở hai bờ giới tuyến bị ngăn cách Nam - Bắc sau hiệp định Genève 1954 làm đề tài xuyên suốt. Nhưng nếu “Chung một dòng sông” (1959) vẫn còn nhiều sự sơ khai, non nớt của điện ảnh cách mạng buổi đầu thì “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” đã biến đề tài này thành một tác phẩm điện ảnh vừa khốc liệt vừa bi tráng, mang dáng dấp của một thiên sử thi của nghệ thuật thứ bảy.
Là người say mê điện ảnh, đã thưởng thức rất nhiều phim hay trên thế giới, nhưng anh vẫn luôn dành tình cảm trân trọng cho những bộ phim điện ảnh Việt Nam mà anh cho rằng “hay”?
Tôi được tiếp xúc với điện ảnh cách mạng Việt Nam từ rất sớm. Từ 5, 6 tuổi đã theo mẹ và chị gái đi xem những bộ phim nổi tiếng thời đó qua hình thức chiếu bóng lưu động. Tôi xem “Cánh đồng hoang”, “Mẹ vắng nhà”, “Ván bài lật ngửa”, “Biệt động Sài Gòn”, “Mùa gió chướng”, “Bao giờ cho đến tháng Mười” và rất nhiều bộ phim khác nữa trong giai đoạn mới lớn ấy và những bộ phim này đã đi vào ký ức tuổi thơ của tôi.

NSND Trà Giang trong Vĩ tuyến 17 ngày và đêm.
Sau này ra Hà Nội học báo chí và trở thành nhà báo chuyên viết về điện ảnh, tôi xem hàng ngàn bộ phim quốc tế, từ những bộ phim kinh điển nhất cho đến những tác phẩm ăn khách, mang tính giải trí. Thế giới điện ảnh quả thực rất rộng lớn và mênh mông, với rất nhiều tên tuổi hàng đầu chinh phục tôi qua những kiệt tác của họ. Nhưng, tôi chưa bao giờ rời bỏ điện ảnh Việt Nam. Một phần, từ ký ức tuổi thơ đã đi vào giấc mơ của tôi; một phần khác, tôi yêu văn hóa và con người Việt Nam và điện ảnh với sức mạnh của ngôn ngữ hình ảnh, giúp tôi hiểu sâu hơn về từng bối cảnh, từng vùng miền văn hóa và nhân vật khác nhau.
Điện ảnh Việt Nam, dĩ nhiên không thể so sánh với điện ảnh thế giới, nhưng qua mỗi thời kỳ, tôi đều tìm thấy những đạo diễn và bộ phim hay để “neo” tâm hồn mình vào. Tôi đã từng nói, không dưới một lần, rằng một bộ phim Việt Nam xuất sắc khiến tôi xúc động hơn nhiều so với một bộ phim quốc tế xuất sắc. “Bao giờ cho đến tháng Mười”, “Thương nhớ đồng quê”, “Mùa ổi” của đạo diễn Đặng Nhật Minh; “Cánh đồng hoang”, “Mùa gió chướng” của đạo diễn Hồng Sến; “Mùi đu đủ xanh”, “Xích lô” của đạo diễn Trần Anh Hùng… là những bộ phim như vậy.
Dường như có một thời gian ngắt quãng với những bộ phim điện ảnh giàu tính nghệ thuật, sâu sắc, chất lượng khi xuất hiện những bộ phim “mì ăn liền” thập niên 90, hoặc những phim về đề tài chiến tranh cách mạng đặt hàng từ nhà nước, dù tốn kém nhưng nhiều phim khó thể bán vé ngoài rạp? Anh chia sẻ gì về điều này?
Điện ảnh cách mạng, hay nói đúng hơn là điện ảnh do Nhà nước sản xuất phát triển mạnh trong giai đoạn chiến tranh và hậu chiến với nhiều bộ phim chinh phục được hàng triệu khán giả. Nhưng đến đầu thập niên 90, khi dòng phim “mì ăn liền” xuất hiện, dòng phim nhà nước bắt đầu thoái trào; không chỉ phim chiến tranh mà những bộ phim về đề tài hậu chiến hay những bộ phim tìm tòi về mặt nghệ thuật, phản ánh những thay đổi của đời sống… không còn chinh phục được khán giả. Giai đoạn thoái trào này kéo dài khá lâu, từ những năm đầu thập niên 1990 kéo dài sang những năm 2000. Một số bộ phim chiến tranh được đầu tư kinh phí lớn trong giai đoạn này, như “Ký ức Điện Biên”, “Mùi cỏ cháy”, “Những người viết huyền thoại”… và một số tác phẩm nghệ thuật mang dấu ấn cá nhân của các đạo diễn như “Thương nhớ đồng quê”, “Mùa ổi” của Đặng Nhật Minh; “Đời cát” của Nguyễn Thanh Vân, “Sống trong sợ hãi” của Bùi Thạc Chuyên… cũng gặp tình trạng ế ẩm tại rạp chiếu, trong giai đoạn mà điện ảnh nội địa khủng hoảng và xuống dốc.
Cho đến năm nay, với sự xuất hiện của “Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối” (đạo diễn Bùi Thạc Chuyên) công chiếu nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thu được 172, 5 tỷ và phim “Mưa đỏ” (đạo diễn Đặng Thái Huyền) sau khoảng 1 tháng công chiếu, thu được hơn 650 tỷ đồng phá loạt kỷ lục phim Việt, có phải là tín hiệu đáng mừng đối với phim điện ảnh Việt Nam nói chung và thể loại phim chiến tranh cách mạng nói riêng?
Tôi nghĩ thành công lớn của hai bộ phim này là ra mắt trong hai dịp lễ trọng đại của đất nước và trong bối cảnh nền điện ảnh nội địa đang phát triển mạnh từ sau đại dịch Covid-19 đến nay. Khán giả bắt đầu quan tâm đến phim Việt, đặc biệt là những đề tài đề cao những giá trị văn hóa của dân tộc. “Địa đạo” và “Mưa đỏ” lấy cảm hứng từ hai sự kiện lịch sử nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kích thích được lòng tự hào dân tộc và khơi gợi được cảm hứng cho khán giả trẻ, đặc biệt là khán giả gen Z tìm hiểu lịch sử của đất nước thông qua điện ảnh.
Hơn nữa, cả hai bộ phim đều thuộc loại “bom tấn” (của điện ảnh Việt), được đầu tư kinh phí lớn, bối cảnh dàn dựng công phu và kịch bản đậm chất sử thi. Những nguyên nhân đó cộng hưởng để nâng tầm hai bộ phim và giúp cả hai, đặc biệt là “Mưa đỏ” thành công vang dội tại phòng vé.

Cảnh trong phim "Mưa đỏ".
Những gì còn tồn đọng, với anh, nếu xử lý thì phim sẽ hay và sâu sắc hơn?
Cả hai bộ phim, dù có những ưu điểm kể trên, đều có một vài hạn chế. Với “Địa đạo”, cách kể chuyện còn khá rối rắm, khiến khán giả đại chúng hơi bối rối khi tiếp cận, dẫn đến những phản ứng trái chiều của dư luận. Với “Mưa đỏ”, cách kể trực diện và hấp dẫn hơn, nhưng kịch bản vẫn quá ôm đồm, một số tình tiết xử lý còn vụng và hơi sáo mòn. Tôi nghĩ cả hai bộ phim này đều đã hoàn thành “phận sự” của chúng, có điểm mạnh, điểm yếu riêng. Chúng là bài học cho những bộ phim sau.
Anh nghĩ gì về sự thành công lớn lao từ phim “Mưa đỏ”, với sự sản xuất của Hãng phim Quân đội Nhân dân và được đầu tư từ Bộ Quốc phòng?
Điện ảnh Nhà nước đã thực sự trở lại và lập nên kì tích vẻ vang, đây là điều khiến tôi bất ngờ nhất. Sự đầu tư cho “Mưa đỏ” với kinh phí lên đến gần 100 tỷ đồng cũng cho thấy Bộ Quốc phòng và Điện ảnh Quân đội rất “chịu chơi”, đầu tư lớn cho một bộ phim chủ đề chiến tranh để thay đổi cách nhìn của khán giả đối với dòng phim bị dán nhãn “tuyên truyền” và “khô khan” trong gần hai thập niên qua. Thành công của “Mưa đỏ” chắc chắn mở lối cho điện ảnh Nhà nước và những bộ phim lấy chủ đề chiến tranh, sử thi trong tương lai.
Chính từ những thành công vượt ngoài mong đợi này, một số nhà sản xuất phim và đạo diễn đã bày tỏ mong muốn được làm những dự án phim về đề tài chiến tranh cách mạng có ý nghĩa với tổ quốc, dân tộc… anh chia sẻ suy nghĩ của mình về điều này?
Chắn chắn rồi. Tôi tin điện ảnh Việt tới đây sẽ có nhiều dự án lớn khai thác những chủ đề liên quan đến chiến tranh, những trận đánh lớn trong lịch sử hay những giá trị văn hóa của dân tộc. Trong bối cảnh điện ảnh nội địa đang phát triển mạnh, đây là thời cơ lớn của những bộ phim “bom tấn” như thế này có thể được đầu tư sản xuất và ra mắt khán giả.
Điện ảnh Việt Nam, dĩ nhiên không thể so sánh với điện ảnh thế giới, nhưng qua mỗi thời kỳ, tôi đều tìm thấy những đạo diễn và bộ phim hay để “neo” tâm hồn mình vào. Tôi đã từng nói, không dưới một lần, rằng một bộ phim Việt Nam xuất sắc khiến tôi xúc động hơn nhiều so với một bộ phim quốc tế xuất sắc.
Anh có thể chia sẻ những đề tài về dòng phim chiến tranh cách mạng mà chúng ta có thể khai thác?
Tôi nghĩ có nhiều đề tài lớn lắm, lấy cảm hứng từ những trận chiến oai hùng trong lịch sử Việt Nam và có thể dựng thành những bộ phim “bom tấn” chinh phục khán giả nội địa. Trước đây thì điện ảnh Việt chưa dám nghĩ tới đâu, nhưng bây giờ, sau thành công của “Địa đạo” và “Mưa đỏ”, tôi nghĩ “thời” đã đến rồi.
Tôi tạm liệt kê một vài đề tài có thể dựng thành phim “bom tấn” như sau: Trận Bạch Đằng (938) - Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán; Trận Chi Lăng (1427) – Lê Lợi tiêu diệt quân Minh; Trận Đông Quan (1427) - Kết thúc 10 năm kháng chiến chống Minh; Trận Điện Biên Phủ (1954) - Chấm dứt thời kỳ xâm lược của thực dân Pháp ở Đông Dương… Trong đó, phim về chiến thắng Điện Biên Phủ ở trong nước cũng đã từng làm, người Pháp cũng có phim “Điện Biên Phủ”, nhưng với chiến thắng lịch sử này chưa có phiên bản Việt Nam hiện đại xứng tầm.
Gần đây hơn thì có Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hoặc phim tiểu sử về một số nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam đương đại như nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (dự án đang được ấp ủ thực hiện mấy năm nay) hay chuyển thể một số tiểu thuyết chiến tranh xuất sắc của văn chương Việt Nam mà Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một ví dụ điển hình. Nhưng tôi cho rằng, đây là một cuốn tiểu thuyết rất khó để chuyển thể!
Hiện nay, kỹ xảo Việt Nam với nhiều gương mặt trẻ được đào tạo chuyên nghiệp cũng sẽ góp phần phát triển ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam không thưa anh?
Công nghệ và kỹ xảo của điện ảnh Việt Nam đã được nâng tầm đáng kể trong khoảng một thập niên qua, đặc biệt là trong khoảng 3 năm trở lại đây. Điện ảnh Việt Nam hầu như có thể làm được dịch vụ sản xuất và kỹ xảo ngang tầm với khu vực. Các công ty chuyên về kỹ xảo và VFX như AIOI, Cyclo, Badclay… đã làm kỹ xảo và hoạt hình 3D cho các bộ phim của Netflix hay phim của Hàn Quốc.
Ở Hà Nội có công ty 3D Art với nguồn vốn và nhân sự hoàn toàn nội địa, là một công ty chuyên về VFX và tham gia vào quá trình sản xuất phim chiến tranh “Mưa đỏ”, một phim bom tấn có kinh phí lớn nhất từ trước đến nay.
Theo nguồn tin từ một nhà sản xuất tiết lộ riêng cho tôi, hiện số tiền đầu tư cho VFX của một số phim “bom tấn” tại Việt Nam có thể lên đến 8-10 tỷ đồng. Đó là một con số rất lớn, chứng tỏ giới đầu tư Việt Nam rất “chịu chơi”.
Dự đoán của anh về điện ảnh Việt Nam trong thời gian tới, khi đất nước mình đang trên đà phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội?
Hoàn toàn tích cực. Trong bản báo cáo về điện ảnh Việt Nam mà tôi thực hiện theo đơn đặt hàng của LHP Busan, bức tranh toàn cảnh của điện ảnh Việt Nam cực kỳ tốt: tăng trưởng mạnh, tỷ lệ nội địa hóa cao, 8/10 phim ăn khách nhất là phim nội địa. Đà tăng trưởng này chưa dừng lại, tôi nghĩ phải 5-10 năm nữa mới bão hòa.
Dù vậy, thành công đó chưa khiến tôi chưa lạc quan lắm về điện ảnh Việt Nam vì vẫn chưa có được những bộ phim thực sự xuất sắc.
Tôi vẫn chờ đợi những đạo diễn tài năng xuất hiện.
Xin cảm ơn những chia sẻ của anh!
Điện ảnh Nhà nước đã thực sự trở lại và lập nên kì tích vẻ vang, đây là điều khiến tôi bất ngờ nhất. Sự đầu tư cho “Mưa đỏ” với kinh phí lên đến gần 100 tỷ đồng cũng cho thấy Bộ Quốc phòng và Điện ảnh Quân đội rất “chịu chơi”, đầu tư lớn cho một bộ phim chủ đề chiến tranh để thay đổi cách nhìn của khán giả đối với dòng phim bị dán nhãn “tuyên truyền” và “khô khan” trong gần hai thập niên qua.