Nhà thơ Lê Hồng Thiện với lục bát tình ở tuổi 84
Nhà thơ Lê Hồng Thiện từ Hưng Yên vừa gửi tặng tôi tập thơ 'Nơi ấy tôi yêu' do NXB Hội Nhà văn ấn hành tháng 5/2025. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội VHNT Hưng Yên, tác giả của gần 20 đầu sách thơ và văn xuôi và đã được trao nhiều giải thưởng văn học.
Ở tuổi 84, cái tuổi người ta thường gắn với sự tĩnh lặng, ngẫm lại cuộc đời trong ánh hoàng hôn của tuổi tác thì với tác giả Lê Hồng Thiện, tình yêu vẫn là mạch nguồn sống dồi dào, hóm hỉnh, da diết, và đậm chất nhân sinh.
Trong 50 bài thơ của tập có đến 36 bài lục bát, đây không chỉ là những áng thơ tình, mà còn là những mảnh ký ức đời sống được gói ghém bằng thứ ngôn ngữ giản dị, đậm đà hồn quê và có tính triết lý nhân sinh.
Từ tình yêu trong ký ức đến tình yêu con người
Đối với ông, tình yêu là niềm vui sống của tuổi già. Bài thơ “Đa mang với nghiệp làm thơ” là lời tự trào duyên dáng của một thi sĩ yêu nghề, yêu đời và yêu người. Ngay từ nhan đề, từ “đa mang” không mang nghĩa tiêu cực, mà là một sự gắn bó sâu nặng với chữ nghĩa và tình cảm.
Câu thơ “Sáng ngắm biển, chiều lơ ngơ ngắm chiều” không chỉ diễn tả sự nhàn nhã của tuổi già mà còn là biểu tượng của một tâm hồn luôn trong trạng thái giao cảm với thiên nhiên và với chính mình. Tác giả tự nhận mình có một “trái tim thi sĩ là liều” - sẵn sàng yêu, sẵn sàng đắm đuối và chính điều đó làm nên vẻ đẹp đáng yêu của người thi sĩ ở tuổi 84. Làm thơ với ông là "xới cày chữ nghĩa", là gian nan nhưng cũng là đam mê khôn nguôi.

Nhà thơ Lê Hồng Thiện.
Tình yêu với nhà thơ Lê Hồng Thiện như những kỷ niệm ấm áp và ngọt ngào. Trong bài “Mùa đông năm ấy”, tình yêu trở thành một hoài niệm dịu dàng mà sâu lắng. Trong khung cảnh gió to, sóng lớn, hai con người “va” vào nhau như một định mệnh. Câu thơ: “Em truyền hơi ấm sang tôi/ Hay tôi truyền ấm sang người tôi thương” không chỉ nói đến sự tiếp xúc thể xác, mà còn là sự rung động tâm hồn, khi hơi ấm trở thành dấu hiệu của tình cảm.
Cái “ấm” ở đây không chỉ là nhiệt độ giữa trời đông lạnh mà là sự nhen nhóm cảm xúc, là khởi điểm cho một điều thiêng liêng sau này. Ở cái tuổi mà người ta thường nhớ về những ngày xưa cũ, ký ức tình yêu lại được hiện về không hề héo úa, mà đầy sức sống và tình cảm.
Tình yêu trong thơ ông có một số bài được kể bằng những câu chuyện có thật trong cuộc đời. “Trú mưa” là bài thơ có yếu tố kể chuyện rõ nét nhất: "Cái đêm hôm ấy đi xem/ Tích chèo cô Tấm làng bên - xóm chùa/ Ra về trời ập đổ mưa/ Em không mang nón trú mưa trong đình/ Là trai chưa vợ, đa tình/ Trú mưa anh trú cả mình… với em/ Trời xui anh đến làm quen/ Đất khiến anh đã gặp duyên gặp người".
Rồi người con gái ấy trở thành vợ nhà thơ “Em là cô Tấm”: "Xinh chưa/ Tấm trong chèo đấy… Anh đưa Tấm về/ Trời mưa tôi được duyên se/ Tích chèo đêm ấy tôi mê một người/ Người ấy giờ vợ của tôi/ Giá mà hôm ấy mà trời không mưa/ Đâu có em mến em ưa/ Cái duyên trời kết đôi vừa xứng đôi/ Tình yêu là thế em ơi/ Bất ngờ… bắt gặp - gặp người, người thương.
Mưa là cái cớ cho một cuộc gặp gỡ, cho một lần “Trú mưa anh trú cả mình… với em”. Cái tình trong bài thơ này vừa hài hước, vừa chân thành. Hình ảnh chàng trai trẻ chưa vợ gặp cô gái xinh đẹp trong một đêm xem tích chèo làng quê tạo nên khung cảnh đậm chất dân gian. Trời mưa với người trú mưa và duyên bén, tự nhiên như cách trời đất sắp đặt.
Điều đặc biệt là mối tình “gặp lần đầu trong mưa” ấy đã kết trái thành hôn nhân. Bài thơ có một cái kết vừa hạnh phúc vừa nhẹ nhàng như một lời kết cho một tích chèo hiện đại. Ở đây, Lê Hồng Thiện không chỉ viết về tình yêu lứa đôi mà còn viết về lòng biết ơn với định mệnh, với trời đất đã “xui” cho mình gặp đúng người. Yếu tố dân gian, ngôn ngữ mộc mạc và giọng điệu trào lộng khiến bài thơ mang màu sắc rất Việt, rất thân thương.
Tình yêu trong thơ Lê Hồng Thiện ở tuổi 84 không chỉ là tình yêu nam nữ, mà là tình yêu cuộc đời, tình yêu ký ức, và tình yêu con người. Ở ông, tình yêu không cũ đi theo tuổi tác mà càng già càng đằm, càng thấm đẫm triết lý nhân sinh. Những bài thơ tuy ngắn gọn, ngôn ngữ mộc mạc nhưng lại đầy sức nặng của trải nghiệm. Giữa một thời đại mà thơ ca đôi khi trở nên quá trừu tượng hoặc lạnh lùng, thì những bài thơ tình của ông như một ngọn lửa nhỏ ấm, hồng và đáng yêu, sưởi ấm trái tim người đọc bằng tất cả sự chân thành của một đời người đã đi qua rất nhiều mùa thương nhớ.
Lục bát đậm chất dân gian, gần gũi mà sáng tạo
Thơ lục bát là thể thơ truyền thống lâu đời của Việt Nam, quen thuộc đến mức được xem như “hồn vía” của văn hóa dân tộc, được người làm thơ sử dụng để khắc họa cả thân phận, tình yêu lẫn triết lý sống. Ở nhà thơ cao niên Lê Hồng Thiện, lục bát không chỉ là thể thơ yêu thích mà còn là mảnh đất ông “gieo chữ”, cày bừa đắm say suốt cả cuộc đời thi sĩ. Qua nhiều bài thơ, ta thấy được phong cách sử dụng lục bát của ông đầy linh hoạt, tự nhiên, vừa dân dã vừa giàu nhạc tính và đặc biệt là giàu hình ảnh gợi cảm, trào lộng mà sâu sắc, ông có cách riêng để làm mới lục bát mà vẫn giữ được cái “hồn quê” vốn có.

Trang bìa tập thơ “Nơi ấy tôi yêu”.
Trước hết, về nhạc tính, Lê Hồng Thiện sử dụng thể thơ lục bát một cách mượt mà và uyển chuyển. Câu thơ có nhịp điệu nhẹ nhàng, gần với lời ăn tiếng nói thường ngày nhưng vẫn đủ duyên, đủ chất thơ. Trong bài “Áo em”, ông khéo léo kết hợp ngôn từ đời thường với hình ảnh gợi cảm, tạo nên âm điệu mềm mại, giàu gợi hình: “Em đi, đẹp dáng em đi/ Bước hai, bước một như y dáng Kiều/ Hút hồn anh, mắt trông theo/ Em đi nghiêng cả nắng chiều - vào anh”.
Ông không viết lục bát theo kiểu cách tân, mà chọn cách giữ hồn truyền thống, làm mới từ bên trong bằng cảm xúc tươi rói, với hình ảnh và nhịp điệu linh hoạt. Ở tuổi xế chiều, thơ ông vẫn căng tràn sức sống, và chính nghệ thuật lục bát đã giúp ông gửi gắm trọn vẹn cái tình, cái duyên, và cái tâm của một thi sĩ.
Trong thơ, ông thường dùng hình ảnh dân gian gần gũi mà sáng tạo. Trong bài “Giăng mắc”, nhà thơ vận dụng hàng loạt hình ảnh quen thuộc trong đời sống nông thôn Việt Nam: hạt sương, hoa, bùa mê, lưới mùng, dao cau, áo nâu. Những từ ngữ này tạo nên không gian rất đỗi bình dị, nhưng qua bàn tay thi sĩ, nó hóa thành những biểu tượng sống động cho cảm xúc yêu đương và sự đắm say: “Hồn tôi giăng mắc câu thề/ Thơ tôi giăng mắc bùa mê một người” hoặc “Thì nhân bắt gặp người xinh/ Giăng câu lục bát chúng mình bén say”.
Điệp từ “giăng mắc” được lặp đi lặp lại như một sợi chỉ nối xuyên suốt bài thơ, tạo nên tính liên tưởng phong phú: từ giăng sương thiên nhiên, đến giăng câu thề, giăng thơ tình, rồi giăng lưới tình yêu. Nhịp thơ đều đặn, cấu trúc lặp mang lại sự ám ảnh nhẹ nhàng, khiến người đọc như cũng bị "mắc lưới" trong không gian tình cảm đầy ma lực ấy.
Điều đặc biệt trong thơ ông, sự trào lộng và chân tình là hai mảng màu đan xen. Thơ lục bát của Lê Hồng Thiện không chỉ mang vẻ đẹp trữ tình mà còn có chất trào lộng nhẹ nhàng, nhất là trong bài “Nghiệp thơ”: “Làm thơ là kiếp trời đầy/ Trồng cây, gieo chữ kéo cày như trâu”.
So sánh “làm thơ” như “kéo cày như trâu” vừa hài hước, vừa thể hiện sự nhọc nhằn và tận tụy với nghiệp viết. Nhưng cũng chính vì yêu nên ông mới “cả đời mong được một câu” - một câu thơ đủ sức nặng, đủ tỏa sáng để người đời nhớ mãi như “ngọc châu, vàng mười”. Đó là tuyên ngôn vừa khiêm nhường, vừa kiêu hãnh của một thi sĩ dâng cả đời mình cho chữ nghĩa.
Qua tập thơ “Nơi ấy tôi yêu”, nhà thơ Lê Hồng Thiện cho thấy một khả năng đặc biệt trong việc sử dụng thể thơ lục bát, một thể thơ tưởng chừng đơn giản nhưng lại đòi hỏi sự tinh tế và cảm xúc sâu sắc.
Với ông, lục bát là nhịp đập của tâm hồn, là cách để yêu thơ, yêu người và yêu cuộc đời. Thơ ông giàu nhạc tính, gợi hình mạnh, dung dị mà gợi cảm, có sự hòa quyện tuyệt vời giữa truyền thống và cá tính riêng, giữa nét duyên quê và chiều sâu thi sĩ. Đó là thứ lục bát rất Việt, rất đời và cũng rất Lê Hồng Thiện.
Điều tôi muốn góp ý với nhà thơ, trong một số bài, ông nệ thực, tả thực hơi nhiều với những ngữ hình cũ, cảm xúc cũ, trong khi thơ cần ảo hơn, cần nhiều ý tưởng hơn, cần giàu chất thơ hơn trong trường liên tưởng của thơ trữ tình để mang lại những dự vị mới, dư âm mới và tránh những lối mòn quen thuộc trong thơ lục bát truyền thống.