Nhìn lại 80 năm hoàn thiện 'thần linh pháp quyền'
Hiến pháp năm 1946 ra đời trong bối cảnh đặc biệt khẳng định tính tất yếu và vai trò then chốt của thể chế, pháp luật trong duy trì trật tự, ổn định, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. 80 năm qua, trước mỗi bước ngoặt lịch sử của đất nước, yêu cầu sửa đổi 'thần linh pháp quyền' lại được đặt ra nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, hướng tới mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
80 năm đồng hành với lịch sử đất nước
Ngày 3-9-1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định việc xây dựng một bản hiến pháp dân chủ là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Ngày 9-11-1946, Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta-Hiến pháp năm 1946. Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp do thù trong, giặc ngoài, bộ máy chính quyền chưa được hoàn thiện, tiềm lực tài chính của Chính phủ hết sức eo hẹp, cộng thêm giặc đói, giặc dốt... nên Hiến pháp năm 1946 thực sự là công cụ đặc biệt quan trọng để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện quyền lực của nhân dân. Đây cũng là văn bản chính trị, pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ghi nhận quyền tự do dân chủ và là cơ sở để xây dựng bộ máy nhà nước, ghi nhận quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; là dấu mốc quan trọng về hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước; là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Trước bối cảnh thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam, vì hoàn cảnh chiến tranh, Hiến pháp năm 1946 không được chính thức công bố. Tuy nhiên, bản chất pháp lý và giá trị lịch sử của bản Hiến pháp năm 1946, đặc biệt là giá trị về dân chủ và ý nghĩa chính trị là điều rất đáng ghi nhận, thậm chí trường tồn đến ngày nay. Hiến pháp năm 1946 cũng được đánh giá là bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không thua kém bất kỳ một bản hiến pháp nào khác trên thế giới.
Hành trình lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt 80 năm qua, thể chế, pháp luật nước ta đã nhiều lần được sửa đổi, hoàn thiện. Sau Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 cùng các văn bản pháp luật liên quan đều hoàn thành vai trò, sứ mệnh, đáp ứng tốt yêu cầu của từng thời kỳ.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì phiên họp Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Ảnh: TRỌNG HẢI
Trước yêu cầu tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị và sắp xếp các đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, ngày 16-6-2025, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết số 203/2025/QH15 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết này là dấu ấn lịch sử, có ý nghĩa hết sức quan trọng, khởi đầu cho cuộc cải cách sâu sắc về thể chế nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khai thông điểm nghẽn, giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước tiến vào kỷ nguyên vươn mình.
Những bài học từ 80 năm
Nhìn lại 80 năm công cuộc xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật giúp chúng ta thấy rõ những mặt được cũng như những tồn tại, hạn chế, rút ra được nhiều bài học, kinh nghiệm quý cho công tác này. Những vấn đề này đã được chỉ ra đầy đủ, toàn diện trong Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ nhấn mạnh thêm một số giải pháp để thể chế, pháp luật thực sự trở thành trụ cột, đòn bẩy thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ nhất, thể chế, pháp luật nhất định phải đi trước một bước. Bài học 80 năm qua cho thấy, mỗi bước ngoặt phát triển đều cần có quy định pháp luật quản lý phù hợp. Thế nhưng, một thời gian dài pháp luật ở nước ta lại luôn theo sau thực tiễn và không đáp ứng được yêu cầu quản lý, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư. Quy định lạc hậu trở thành rào cản, tạo ra cơ chế “xin-cho” và môi trường dễ phát sinh tiêu cực. Ngày nay, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế toàn cầu hóa mở ra những mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất hoàn toàn mới, thể chế phải đi trước một bước, có các khung pháp lý thử nghiệm, phân quyền mạnh mẽ hơn cho các địa phương, bộ, ngành chủ động trong phạm vi kiểm soát để vừa khuyến khích đổi mới, vừa bảo đảm kỷ cương.
Thứ hai, thể chế, pháp luật phải lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Không ít văn bản pháp luật hiện nay bị phàn nàn vì xa rời thực tiễn, tạo thêm gánh nặng thủ tục, chi phí cho người dân và doanh nghiệp. Có luật vừa ban hành đã phải sửa, thậm chí nhiều quy định không thể đi vào cuộc sống vì không sát thực tế. Nguyên nhân là quá trình làm luật còn có biểu hiện áp đặt, thiếu lắng nghe các đối tượng chịu tác động. Bài học 80 năm qua khẳng định, mọi thành công về thể chế đều xuất phát từ việc đặt lợi ích nhân dân làm trung tâm. Muốn thế thì mỗi văn bản, mỗi quy định phải được thiết kế trên nguyên tắc “xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước; đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh; dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Nếu không, thể chế sẽ tiếp tục chậm trễ và trở thành gánh nặng, thay vì động lực phát triển.
Thứ ba, kỷ luật lập pháp phải nghiêm, trách nhiệm đến cùng. Một nguyên nhân sâu xa khiến pháp luật nhiều khi chậm, yếu, thậm chí mâu thuẫn là tình trạng nợ đọng văn bản, “luật khung, luật ống”, “cuốc giật vào lòng” nhằm trục lợi, hướng lái chính sách... Kinh nghiệm 80 năm qua cho thấy, để khắc phục tình trạng này, phải đặt kỷ luật lập pháp lên hàng đầu. Cùng với bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật thì cần thực thi nghiêm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Chính phủ. Luật phải khả thi, minh bạch và quan trọng nhất là phải có cơ chế đánh giá tác động sau khi đi vào thực tiễn, kịp thời sửa đổi, hủy bỏ những quy định bất cập.
Thứ tư, coi trọng thi hành pháp luật như xây dựng pháp luật. Thể chế, pháp luật dù tốt đến đâu cũng vô nghĩa nếu không được thực thi đầy đủ, nghiêm túc; thi hành luật phải được coi trọng ngang với xây dựng luật. Muốn vậy, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thực thi pháp luật; số hóa quy trình thực thi; công khai, minh bạch mọi thủ tục và đặc biệt là xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm các trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện sai luật.
Trong bối cảnh mới, thời vận mới thì mỗi công dân cần phải hiểu đúng vai trò và trách nhiệm của mình, không ai đứng ngoài cuộc trong kỷ nguyên vươn mình. Trước tiên là cần phải có nhận thức đầy đủ về pháp luật, tuân thủ pháp luật, thực hiện pháp luật một cách nghiêm túc..