Những bài học vô giá

Tám thập kỷ đã trôi qua, nhưng bài học của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vẫn còn nguyên giá trị với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị, trong đó có ngoại giao

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ tư tại trụ sở Bộ Ngoại giao, số 1 Tôn Thất Đàm, tháng 4/1965. (Ảnh tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ tư tại trụ sở Bộ Ngoại giao, số 1 Tôn Thất Đàm, tháng 4/1965. (Ảnh tư liệu)

Ý nghĩa thời đại

Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mang ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Ý nghĩa to lớn nhất là tạo ra bước ngoặt, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Từ xứ thuộc địa nửa phong kiến “không có tên”, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên giành chính quyền từ tay thực dân, phát xít. Nước Việt Nam non trẻ lần đầu tiên ghi danh trên bản đồ thế giới, mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trong cộng đồng quốc tế với tư cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Thắng lợi to lớn đó thể hiện khát vọng, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Không chỉ với Việt Nam, sự kiện lịch sử ấy còn mang ý nghĩa thời đại sâu sắc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, trở thành một thành viên của “đại gia đình dân chủ thế giới”.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam giáng đòn chí mạng, phá tung mắt xích quan trọng, thúc đẩy sự tan rã nhanh chóng của hệ thống thuộc địa, mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Việt Nam trở thành tấm gương, nguồn cảm hứng cho các quốc gia, dân tộc bị áp bức ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh; cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ.

Thắng lợi đó càng có giá trị, ý nghĩa khi đặt trong bối cảnh cực kỳ khó khăn lúc đó. Đảng Cộng sản Việt Nam mới 15 tuổi, phải hoạt động bí mật với vài nghìn đảng viên; không có phương tiện thông tin liên lạc, bị chia cắt với thế giới; vũ khí trang bị rất thô sơ... Vậy mà Đảng đã lãnh đạo, điều hành, tập hợp lực lượng nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi trên phạm vi cả nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dẫn dắt dân tộc đến đỉnh cao vinh quang đánh giá về giá trị, ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám và sự khai sinh nước Việt Nam “là một thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định đây là một trong những “chiến công hiển hách và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam”.

Thắng lợi vĩ đại ấy không chỉ ghi dấu mốc lịch sử mà còn để lại những bài học vô giá, soi sáng cho sự nghiệp cách mạng và ngoại giao hôm nay.

Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi. Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đúng đắn, tôi luyện trưởng thành qua các cao trào cách mạng, xác lập vai trò lãnh đạo, đại diện cho ý chí, khát vọng của toàn dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân. Thắng lợi đó thể hiện sự đúng đắn của Đảng trong xác định phương hướng, mục tiêu, xây dựng lực lượng và phương pháp đấu tranh cách mạng.

Thứ hai, bài học về nghệ thuật chủ động nắm và tận dụng thời cơ; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời cơ thực sự xuất hiện, tồn tại trong một thời gian ngắn, từ khi phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh (14/8/1945) đến khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật (5/9/1945). Đảng đã dự báo đúng diễn biến tình hình, chuẩn bị mọi mặt, hành động quyết đoán, chính xác, chớp thời cơ “nghìn năm có một”. Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng trong 15 ngày (tính từ 14/8). Chúng ta đã tận dụng thắng lợi của phe Đồng minh trong Thế chiến II, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Cũng trong bối cảnh chung đó, Việt Nam là một trong số rất ít nước tận dụng được thời cơ này.

Thứ ba, bài học về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhân dân các dân tộc được tập hợp, giác ngộ, tin tưởng, ủng hộ, đoàn kết xung quanh Đảng, là lực lượng cách mạng hùng hậu, sức mạnh vô địch. Đó là sức mạnh chính trị, tinh thần to lớn của đại đoàn kết toàn dân tộc, của nhân dân, được Đảng tổ chức, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ. Với sức mạnh đó, chúng ta đã giành thắng lợi nhanh chóng trong điều kiện vô cùng khó khăn.

Trong kỷ nguyên mới, ngoại giao càng phải nhận thức sâu sắc về vai trò tiên phong trong duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thu hút các nguồn lực, tạo cục diện và môi trường quốc tế thuận lợi cho phát triển đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Điểm tựa trong kỷ nguyên mới

Tám thập kỷ đã trôi qua, bài học của Cách mạng tháng Tám và khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn còn nguyên giá trị với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị, trong đó có ngoại giao, đặc biệt là ở thời điểm trước thềm kỷ nguyên mới.

Tình thế hiện nay thuận lợi hơn nhiều so với năm 1945. Đất nước có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín cao trên trường quốc tế. Nghị quyết của Đảng về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, tới đây là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIV tạo nền tảng, động lực, đột phá cho cả nước, trong đó có ngoại giao. Nhưng kỷ nguyên mới cũng đặt ra yêu cầu rất cao, đòi hỏi phải nhanh, mạnh, quyết liệt và chính xác hơn.

Do đó, ngoại giao càng phải nhận thức sâu sắc về vai trò tiên phong trong duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thu hút các nguồn lực, tạo cục diện và môi trường quốc tế thuận lợi cho phát triển đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nền ngoại giao trong kỷ nguyên mới phải là một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, phát huy vai trò tiên phong, cùng với quốc phòng, an ninh thực hiện nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy.

Để phát huy truyền thống vẻ vang và thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh vinh quang của ngành Ngoại giao trong kỷ nguyên mới, trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thành công; nâng cao năng lực, đổi mới phương thức lãnh đạo, phát huy vai trò, sứ mệnh của Đảng bộ Bộ Ngoại giao trong kỷ nguyên mới.

Hai là, luôn nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, nghiên cứu, dự báo chính xác, kịp thời thời cơ, xu hướng, thuận lợi, khó khăn, từ đó tham mưu, đề xuất chính sách, giải pháp về đối ngoại, hội nhập quốc tế, đối sách trong các tình huống. Tình hình diễn biến rất nhanh, phức tạp, nếu không nhạy bén, dự báo đúng, chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ, chậm chân.

Ba là, đoàn kết, phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội, văn hóa..., từ nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược, xây dựng chính sách, chiến lược, kế hoạch đến triển khai thực hiện.

Bốn là, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò đối ngoại nhân dân trong các nhiệm vụ, hoạt động, địa bàn, gồm cả nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài.

Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm yêu cầu của kỷ nguyên mới, “vừa hồng, vừa chuyên”, bản lĩnh chính trị vững, phẩm chất tốt, trình độ giỏi, ứng dụng khoa học công nghệ thành thạo, tinh thông nghiệp vụ, làm nòng cốt xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp.

TS. Vũ Đăng Minh

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/nhung-bai-hoc-vo-gia-326156.html