Những bước đi trên 'đại lộ' hội nhập quốc tế

Mở cửa và hội nhập quốc tế là dòng chảy xuyên suốt gần 40 năm Đổi mới, gắn liền với những bước ngoặt chiến lược của đất nước. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại, trở thành bạn, đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Những dấu ấn trên chặng đường hội nhập

Hội nhập quốc tế gắn chặt với quá trình Đổi mới đất nước từ cách đây gần 4 thập kỷ. Đổi mới đã tạo cho Việt Nam một sức mạnh mới, nền tảng mới cả về chính trị, kinh tế, khung luật pháp để từng bước hội nhập không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà trên mọi mặt.

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đặt nền móng cho thời kỳ Đổi mới. Lúc này, với nhận thức về tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, Đảng ta đã mong muốn hợp tác với các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thay vì chỉ hợp tác với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa và Đông Dương, nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.

Tuy nhiên, tới Đại hội VII (1991), dấu ấn cho sự khởi đầu hội nhập quốc tế mới rõ ràng khi Việt Nam chủ động thúc đẩy quan hệ, "muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Đại hội VII ghi nhận bước chuyển mình thực sự mang tính chiến lược về nhận thức và quan điểm đối ngoại của Đảng, dựa trên nền móng Đổi mới của Đại hội VI; bạn bè truyền thống vẫn duy trì, củng cố mối quan hệ, song đã chuyển từ tư duy "thêm bạn, bớt thù" sang "muốn làm bạn với tất cả".

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres, tháng 9/2024.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres, tháng 9/2024.

Nhờ sự chủ động trong việc mở rộng quan hệ hợp tác, trong giai đoạn này, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cấm vận, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, trong đó bước ngoặt quan trọng là năm 1995, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký kết Hiệp định khung về hợp tác với Liên minh châu Âu (EU) và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Việc chấp nhận tham gia Chương trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) và hội nhập Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) ngay sau đó được xem là bước đầu tiên để "khớp" nền kinh tế của Việt Nam với thế giới; tạo tiền đề để vừa đổi mới kinh tế trong nước, vừa hội nhập với quốc tế sâu hơn, trong đó có việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO (năm 2007).

Dấu ấn tiếp theo trong quan điểm đối ngoại là Đại hội IX (2001), với thế và lực sau 15 năm đổi mới, Đảng ta đã tự tin chuyển từ phương châm "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước" thành "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Quan hệ đối ngoại không chỉ là sự chủ động một chiều từ Việt Nam mà hướng tới quan hệ hai chiều, Việt Nam đón nhận cả sự chủ động từ phía các đối tác mong muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam.

Các kỳ Đại hội X, XI, XII và Đại hội XIII (2021) tiếp tục kế thừa những nội dung xuyên suốt đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, với chủ trương nhất quán là "độc lập, tự chủ, đa dạng hóa và đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại", "Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế"; đồng thời phát triển và bổ sung nhiều nội dung để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Đại hội XIII đặt ra yêu cầu về tính "toàn diện" và "sâu rộng" trong hội nhập quốc tế. Không chỉ rộng mở về không gian, hội nhập quốc tế tiếp tục đi vào chiều sâu, triển khai các cam kết quốc tế, trong đó thực hiện hiệu quả các FTA thế hệ mới, đồng thời "chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế". Bên cạnh đó, lần đầu tiên, Đảng xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.

Có thể nói, mỗi một kỳ đại hội là một lần tổng kết về quá trình đổi mới và hội nhập của đất nước, thể hiện rõ từng bước đi và sự thay đổi, trưởng thành về nhận thức, tư duy của Đảng. Từ tư duy "bạn - thù" trở thành "đối tác - đối tượng", ai cũng là bạn dù có những mặt khác biệt; từ hội nhập kinh tế, đến hội nhập nhiều lĩnh vực, toàn diện, sâu rộng và có ưu tiên cho những lĩnh vực tiềm năng.

Sau 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã xây dựng được mạng lưới đối tác phủ khắp toàn cầu; thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao với 194/194 nước thành viên Liên Hợp Quốc và mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 38 nước, trong đó có tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, các nước G7 và hầu hết các nước G20.

Việt Nam là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 259 chính đảng, với 119 quốc gia trên thế giới.

Vai trò tiên phong trong kỷ nguyên mới

Gần 4 thập kỷ đổi mới đã cho chúng ta bài học là đất nước càng mạnh thì năng lực càng nhiều, càng có thể đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hội nhập để trở nên mạnh hơn. Việt Nam đang ở vị thế rất thuận lợi để tranh thủ hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, thế giới cũng đang đứng trước những thay đổi cực kỳ sâu sắc trong mô hình phát triển do tác động của chuyển đổi xanh, chuyển đổi sạch và đổi mới sáng tạo. Cơ hội đan xen thách thức. Phải tìm kiếm cơ hội từ trong thách thức và trong bất cứ cơ hội nào cũng đều có thách thức. Phải đủ bản lĩnh mới có thể tranh thủ được cơ hội trong bối cảnh hiện nay.

Trong bối cảnh đó, vai trò tiên phong của đối ngoại càng trở nên quý giá hơn bao giờ hết, đặc biệt là tiên phong chủ động trong 3 nhiệm vụ: chủ động phát hiện sớm những xu hướng mới của thời cuộc; chủ động dự báo đúng những biến động của môi trường quốc tế; và chủ động nắm bắt, tận dụng kịp thời những cơ hội phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước.

Nguy cơ hôm nay không còn đơn thuần là chiến tranh hay cấm vận, mà đa dạng và phức tạp hơn, từ dịch bệnh toàn cầu, biến đổi khí hậu cho đến cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Trong mỗi nguy cơ ấy, nếu tỉnh táo và bản lĩnh, đối ngoại có thể tìm ra thời cơ để nâng tầm vị thế quốc gia.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế.

Đại hội XIV tới đây Đảng sẽ là bước ngoặt quan trọng, tạo tiền đề cho bước chuyển mình mới của đất nước. Phải cụ thể hóa sự chuyển mình đó, đặc biệt là những khát vọng về phát triển và hội nhập hướng tới mốc 2030 và 2045. Theo đó, chiến lược ngoại giao được chuyển đổi sang phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Để phục vụ mục tiêu này, chính sách đối ngoại cần làm tốt ba nhóm nhiệm vụ:

Thứ nhất, phải giữ vững được môi trường xung quanh hòa bình, ổn định để tập trung cho phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc nên hiểu rất rõ môi trường hòa bình là cực kỳ quan trọng và tạo ra lợi thế lớn. Muốn có môi trường hòa bình, quan trọng nhất là tạo dựng được những mối quan hệ trên cơ sở những nguyên tắc của luật pháp quốc tế với các nước xung quanh và các nước lớn.

Thứ hai, phải tranh thủ hội nhập và hợp tác kinh tế để tạo thêm nguồn lực cho phát triển nhưng chất lượng cao hơn, bền vững hơn và dựa nhiều hơn vào đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, khi tham gia vào hội nhập quốc tế phải phát huy được những thế mạnh của Việt Nam ở mức độ cao nhất, để vừa đóng góp vào sự phát triển chung của thế giới vừa tạo nên vị thế ngày một rõ ràng hơn cho Việt Nam. Càng tạo được vị thế quốc tế thì đất nước sẽ càng lớn mạnh.

Đại sứ Phạm Quang Vinh – Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/nhung-buoc-di-tren-dai-lo-hoi-nhap-quoc-te-204251013224512695.htm