Những chiếc xe đạp thồ huyền thoại trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, hậu cần Việt Nam đã làm nên một kỳ tích vượt ngoài dự tính của quân đội viễn chinh Pháp đó là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm cho quân đội và lực lượng vũ trang kháng chiến toàn thắng. Một trong những phương tiện chủ lực góp phần vào thành tích đáng tự hào, đó là xe đạp thồ.
Huy động sức dân, lấy trung tâm hành động là những chiếc xe đạp thồ
Trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, thực dân Pháp cho rằng Việt Minh sẽ không thể nào khắc phục được vấn đề tiếp tế hậu cần cho một chiến dịch lớn và xa hậu phương như thế. Theo tính toán của quân địch, lực lượng của Tướng Giáp sẽ không thể có được tiếp viện vũ khí, đạn dược và lương thực. Phải mang hàng nghìn tấn hàng, xuyên hàng trăm km rừng rậm để tiếp viện cho một lực lượng chiến đấu khoảng 50.000 người là một thử thách không thể vượt qua.
Đó là một nhận định hoàn toàn có cơ sở bởi Điện Biên Phủ cách rất xa hậu phương của chúng ta. Cung đường trên 500km, địa hình rừng núi bao la hiểm trở, đường vận tải cơ giới hư hỏng và không có đường thủy, mưa nắng thất thường, phương thức vận chuyển thô sơ.
Nếu vận chuyển hoàn toàn bằng sức người gánh bộ từ Thanh Hóa ra đến Việt Bắc rồi Tây Bắc thì cứ 1kg gạo đi đến đích phải có 24kg gạo ăn dọc đường. Nếu vậy phải huy động hơn 600 nghìn tấn gạo và một lực lượng dân công khổng lồ. Đây là điều khó có thể thực hiện được trên thực tế khiến công tác hậu cần trở thành một trong những vấn đề khó khăn nhất khi ta mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ, quân và dân ta đã có những cách làm sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn như: Động viên Nhân dân Tây Bắc ra sức tiết kiệm đóng góp tại chỗ, đẩy mạnh làm đường, sử dụng tối đa số ô tô vận tải hiện có, huy động tối đa các phương tiện vận chuyển thô sơ như: xe ngựa, voi, xe thồ...
Trong tất cả các phương tiện vận chuyển, xe đạp thồ đã chứng minh được tính ưu việt của mình. Ưu điểm của loại phương tiện này là nhỏ gọn, cơ động lại không cần nhiên liệu, dễ sửa chữa, dễ ngụy trang, có thể di chuyển trên địa hình đồi núi dù là khó khăn nhất. Sử dụng xe đạp thồ vận chuyển cũng năng suất hơn nhiều so với gánh bộ. Mỗi chiếc xe thồ có sức chở trung bình từ 50kg đến 100kg tương đương với sức mang của 5 người. Khi được gia cố thêm, xe đạp thồ có thể mang từ 200kg đến 300kg gạo và có thể chở được những vật tư cồng kềnh hay chất lỏng.
Trên thực tế đã có nhiều dân công với phương tiện xe đạp thồ chở được khối lượng hàng hóa vượt mức trung bình hơn rất nhiều, tiêu biểu như: ông Bùi Tín (dân công tỉnh Thanh Hóa) vận chuyển lương thực, vũ khí đạt trọng tải từ 80kg đến 213kg (kết thúc chiến dịch, ông vinh dự được thưởng Huy hiệu Bác Hồ và Huân chương Chiến công hạng ba); “Kiện tướng xe thồ” Cao Văn Tỵ (dân công tỉnh Thanh Hóa) với nhiều sáng kiến đã chở được 320kg/chuyến. Đặc biệt là ông Ma Văn Thắng (dân công tỉnh Phú Thọ). Chiếc xe đạp thồ do ông Thắng gia cố đã lập kỷ lục vận chuyển trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có chuyến chở 325 kg hàng, gấp 13 lần một người gồng gánh.
Với năng suất vận chuyển cao như vậy, những chiếc xe đạp thồ tưởng chừng thô sơ, vô hại lại trở thành “vũ khí đặc biệt” góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Chưa bao giờ công tác hậu cần lại đảm bảo được một khối lượng vật chất lớn đến như thế: 20.125 tấn, trong đó gạo 14.950 tấn, vũ khí và dầu 3.000 tấn, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 565 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác. Lần đầu tiên ta bảo đảm hậu cần cho một lực lượng lớn tham gia chiến dịch (hơn 87.000 người) bao gồm cả bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong và dân công phục vụ chiến dịch.
Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng
Càng những ngày cuối Chiến dịch Điện Biên Phủ, hàng vạn chiếc xe đạp thồ từ các vùng tự do, vùng mới giải phóng Tây Bắc cũng như những vùng sau lưng địch đã băng rừng vượt suối hăng hái tham gia phục vụ tiền tuyến.
Những tuyến cung cấp của quân và dân ta dài hàng trăm km từ Thanh Hóa, Phú Thọ lên đến Tây Bắc, trên những cung đường hiểm nguy, suối sâu đèo cao. Hơn 21.000 chiếc xe đạp thồ được biên chế thành từng đoàn, mỗi đoàn nhiều trung đội, mỗi trung đội từ 30-40 xe cứ ngày đêm cặm cụi, kiên nhẫn đi trong đêm, trong sương mù, trong mọi điều kiện khí hậu và trải qua mọi cung đường hướng về phía mặt trận. Khi xe nghỉ, người điều khiển lại tranh thủ thời gian bảo dưỡng xe: tra dầu, bơm hơi, thay thế những lốp xe bị mòn. Ai cũng yêu quý xe, coi xe thồ như chính một phần quan trọng trên cơ thể mình.
Đến ngày 7/5/1954, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng của địch. Chiến thắng Điện Biên Phủ trở thành bản anh hùng ca bất diệt trong thời đại Hồ Chí Minh; một trong những chiến công chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX.
Không phải người Pháp không phát hiện ra những chiếc xe đạp thồ là nguồn vận chuyển chính cho Điện Biên Phủ mà những nỗ lực để ngăn chặn nó chưa bao giờ thực hiện được. Ký giả Jules Joy trong cuốn “Trận Điện Biên Phủ” đã viết: “Đã có hàng trăm tấn bom được ném xuống các tuyến giao thông và những con đường tiếp vận của Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng chẳng bao giờ cắt đứt nổi những con đường ấy… Điều khiến Tướng Nava bị thua chính là những chiếc xe đạp thồ với những kiện hàng từ 200 đến 320kg được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên những mảnh nilong trải trên đất”.
Đội quân xe đạp thồ xuất hiện ở Điện Biên Phủ là một điều kỳ diệu chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, không chỉ ở Việt Nam mà cả lịch sử chiến tranh thế giới. Những chiếc xe đạp thồ tuy giản dị nhưng lại là minh chứng sống động cho tinh thần và ý chí quyết tâm không có gì lay chuyển được của một dân tộc kiên cường, anh dũng, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược.