Những cô gái phá mật mã của làng tình báo trong Thế chiến II - Kỳ 2
Hải quân và Lục quân Mỹ đã tuyển dụng trên 10.000 phụ nữ làm nhà phân tích mật mã để giải mật mã của kẻ thù trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Cũng giống như ở Anh, câu chuyện về những phụ nữ này hầu như không ai biết tới.
Tác giả Liza Mundy đã xuất bản một cuốn sách về họ năm 2017, trong đó kể những chuyện chưa từng kể về những cô gái phá mật mã thời chiến.
Cơ hội cho phụ nữ
Tháng 11/1941, không lâu trước vụ tấn công Trân Châu Cảng, một loạt thư xuất hiện trong hộp thư của sinh viên tại các trường đại học dành cho nữ hàng đầu ở Mỹ. Bức thư được mã hóa và rất ngắn gọn, mời họ tham gia các cuộc phỏng vấn riêng, trong đó sinh viên có thể được hỏi hai câu hỏi mã hóa: Họ có thích chơi trò ô chữ không và họ có đang đính hôn, sắp cưới chồng không? Câu trả lời đúng cho câu hỏi đầu tiên là có, còn câu trả lời mà người tuyển dụng mong muốn cho câu hỏi thứ hai là không.
Hơn một năm liền, Hải quân Mỹ đã lặng lẽ tuyển nhân viên tình báo nam, đặc biệt là nhân viên phân tích mật mã từ các trường đại học danh tiếng và đang thực hiện quy trình tương tự với nữ. Họ muốn phụ nữ học vấn cao phục vụ nỗ lực chiến tranh càng nhanh càng tốt.
Trong những cuộc gặp đầu tiên, những người được chọn nhận phong bì chứa lời giới thiệu ngắn gọn về lịch sử mật mã cùng với các bài tập đánh số mà họ phải hoàn thành mỗi tuần. Cuối mùa Xuân năm 1942, những phụ nữ đầu tiên do Hải quân tuyển dụng đã hoàn thành khóa học bí mật và nộp bài tập cuối cùng. Những ai còn theo khóa học và có đủ số câu trả lời đúng (chưa đầy một nửa số người được tuyển) sẽ bắt đầu làm nhiệm vụ tại trụ sở đông đúc của Hải quân ở Washington, D.C.
Cùng lúc đó, một cuộc họp khác đang diễn ra. 20 trường đại học nữ sinh cử đại diện tới khách sạn sang trọng Mayflower ở Washington, D.C. Tại đây, bộ phận phá mã của Lục quân Mỹ đang thiết lập quan hệ với các trường nữ sinh để tuyển họ vào những vị trí cấp cao trước cả Hải quân hay bất kỳ quân chủng nào.
Tổng thanh tra Bộ Lao động lưu ý rằng số dân thường trưởng thành không thể đủ cho một nền kinh tế thiếu vắng nam giới vì họ đã ra chiến trường gần hết. Trong bầu không khí căng thẳng và hỗn loạn thời chiến, nước Mỹ đang có một cuộc chiến nhỏ hơn diễn ra, cuộc chiến mà sinh viên đại học nữ lần đầu tiên trong lịch sử được các bên tuyển dụng tranh giành.
Bất kể xuất thân, những phụ nữ được Hải quân và Lục quân tuyển dụng đều có một số phẩm chất chung. Họ thông minh, tháo vát, nỗ lực học hành cho dù phụ nữ không được khuyến khích học tập. Họ giỏi toán, khoa học và ngoại ngữ. Họ chăm chỉ và yêu nước. Họ có ý chí và sẵn sàng mạo hiểm. Họ không kỳ vọng được ghi công công khai vì những công việc tình báo mà họ làm.
Điều cuối cùng có lẽ là điều quan trọng nhất vì công việc của họ phải được giữ bí mật hoàn toàn. Khi được hỏi làm gì, họ sẽ trả lời họ làm sạch vỏ lon và gọt bút chì. Sau này, một người kể lại: “Gần như mọi người đều nghĩ chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài việc của thư ký”.
Thế nhưng, trong cuộc xung đột bạo lực nhất toàn cầu mà con người từng chứng kiến, cuộc chiến tốn tiền của và gây thiệt hại về người và tài sản nhất từ trước tới nay, những phụ nữ này đã trở thành xương sống của một trong những nỗ lực tình báo thành công nhất lịch sử, kéo dài từ trước trận Trân Châu Cảng cho tới khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc.
Sau chiến tranh, hoạt động phá mã của Hải quân và Lục quân được sáp nhập thành Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) ngày nay. Chính phụ nữ đã hỗ trợ thành lập lĩnh vực nghe lén – khái niệm mà bây giờ trở nên gây tranh cãi hơn thời đó. Chính phụ nữ đã hình thành nền văn hóa ban đầu của NSA.
Qua bức thư mà các nữ sinh nhận trước khi tới Washington, họ biết rằng cho tới thời điểm đó, công việc phân tích mật mã bí mật mà họ được tuyển chọn để làm đều do nam giới đảm nhiệm. Bức thư viết: “Phụ nữ có thể làm việc này thành công hay không cần phải được chứng minh. Chúng tôi tin tưởng các bạn có thể làm được”.
Tại Washington, nữ nhân viên phá mật mã có vai trò quan trọng trong mọi giai đoạn chiến tranh. Họ vận hành những cỗ máy văn phòng phức tạp được chuyển thành máy phá mã. Họ thiết lập thư viện gồm các bài phát biểu, danh sách tên các con tàu và tướng lĩnh của kẻ thù để hỗ trợ giải mã tin nhắn và làm sáng tỏ nội dung. Họ làm cả việc của biên dịch viên.
Hải quân sở hữu trường dòng Mount Vernon ở Tây Bắc Washington và nhanh chóng dựng doanh trại cho 4.000 nữ nhân viên phá mật mã. Nhiều nhóm nữ đã tấn công và bẻ thành công các hệ thống mật mã quan trọng. Họ cũng thử nghiệm mật mã riêng của Mỹ và đảm bảo mật mã an toàn.
Công việc của họ còn là nhân viên điều hành hệ thống can thiệp tín hiệu vô tuyến tại các trạm nghe lén toàn cầu. Hải quân không cho phụ nữ ra nước ngoài làm việc nhưng Lục quân lại cho phép. Một số nhân viên Lục quân được điều sang Australia và các đảo Thái Bình Dương như New Guinea. Một số đi cùng Tướng Douglas MacArthur khi ông tới Tokyo sau chiến tranh.
Một số phụ nữ hỗ trợ thiết lập “giao thông giả”, tức là các tín hiệu vô tuyến giả để lừa quân Đức tin rằng ngày đổ bộ D-Day sẽ diễn ra ở Na Uy hoặc khu vực Pas-de-Calais ở Pháp, chứ không phải là bãi biển Normandy.
Đó là những ngày khởi đầu của an ninh thông tin, khi các nước vội vàng phát triển biện pháp liên lạc an toàn tại thời điểm mà công nghệ đã tạo ra những cách mới để mã hóa và giấu thông tin.
Nhiều người cho rằng phụ nữ hợp với việc phá mật mã. Đây không phải lời khen vì họ cho rằng phụ nữ hợp với những việc buồn tẻ, đòi hỏi chú ý tới từng chi tiết chứ không phải là việc cần trí thông minh.
Tầm quan trọng của các nữ nhân viên phá mật mã
Các nước phe Trục không bao giờ huy động phụ nữ ở mức độ như phe Đồng minh. Đức và Nhật là những nền văn hóa truyền thống mà phát xít coi phụ nữ chỉ là máy đẻ và phụ nữ cũng không tham gia phục vụ thời chiến dưới bất kỳ hình thức gì.
Có nhiều lý do mà phe Đồng minh thắng thế trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, trong đó phụ nữ là một trong những nhân tố này. Phụ nữ là những nhân tố tích cực trong chiến tranh. Thông qua những công việc trí não, họ đã có ảnh hưởng tới cuộc chiến.
Nghe những cuộc trao đổi của kẻ thù là một cách rất hiệu quả để biết kẻ thù đang nghĩ gì, làm gì, lo lắng điều gì và định làm gì. Nó có đủ mọi thông tin từ chiến lược, động thái của binh sĩ, lịch trình, đồng minh chính trị, thương vong, nhu cầu tiếp tế…
Những nhân viên phá mật mã đã đi tiên phong trong tình báo tín hiệu, tức là công việc đọc tín hiệu mã hóa của kẻ thù và cả đồng minh. Họ đặt nền tảng cho lĩnh vực an ninh mạng đang phát triển mạnh hiện nay. Họ đi đầu trong công việc mà sau này giúp hình thành ngành tin học hiện đại.
Họ cũng đóng vai trò trung tâm trong rút ngắn cuộc chiến tranh. Công việc phá mật mã rất quan trọng đối với thành công của phe Đồng minh trong đánh bại Nhật Bản – kẻ thù từng sẵn sàng chiến đấu tới chết.
Việc Anh và Mỹ có thể xâm nhập mật mã Enigma của Đức Quốc xã mà Đô đốc Đức Karl Donitz dùng để chỉ đạo các chỉ huy tàu ngầm đã giúp loại bỏ hoàn toàn mối đe dọa của tàu ngầm Đức.
Trước khi xảy ra trận Trân Châu Cảng, Lục quân Mỹ có 181 người làm việc trong văn phòng phá mật mã tối mật ở Washington. Tới năm 1945, Lục quân có lực lượng phá mã gồm 10.500 người và được chuyển tới nơi làm việc to hơn nhiều, trong đó gần 70% là phụ nữ.
Tương tự, Hải quân Mỹ có vài trăm nhân viên phá mật mã lúc bắt đầu cuộc chiến. Tới năm 1945, có 5.000 người làm việc ở Washington và từng đó người làm việc ở nước ngoài. Ít nhất 80% nhân viên phá mật mã trong nước của Hải quân (4.000 người) là phụ nữ. Như vậy, trong tổng số khoảng 20.000 nhân viên phá mật mã của Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, khoảng 11.000 người là phụ nữ.
Nhiều thành công quan trọng của chương trình phá mật mã đã được công bố khi kết thúc chiến tranh. Cuối năm 1945, tờ New York Times đăng bức thư mà Tướng George Marshall viết gửi ông Thomas Dewey, ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa, nói rõ một số chiến thắng là nhờ lực lượng phân tích mật mã và xin ông giữ bí mật. Khi chiến tranh kết thúc, bức thư được công khai. Trong đó, Tướng Marshall nói Mỹ cần cảm ơn lực lượng phá mật mã vì nhờ đó mà Mỹ có rất nhiều thông tin về chiến lược của Nhật Bản. Ông nói rằng nhờ lực lượng này mà Hải quân có những chiến thắng nổi tiếng và chỉ ra rằng hoạt động của Hải quân ở Thái Bình Dương chủ yếu dựa vào thông tin mà Mỹ thu được về quá trình triển khai của Nhật Bản.
Sau chiến tranh, Ủy ban điều tra chung về vụ Trân Châu Cảng đánh giá tình báo tín hiệu của Hải quân và Lục quân Mỹ là những thông tin tình báo tốt nhất trong lịch sử, đóng góp to lớn trong đánh bại kẻ thù, rút ngắn chiến tranh ít nhất hai năm và cứu hàng nghìn mạng sống.
Các thành viên Quốc hội cũng nhanh chóng khen ngợi lực lượng phá mật mã. Hạ nghị sĩ Clarence Hancock nói trước Hạ viện ngày 25/10/1945: “Họ đáng được vinh danh và biết ơn. Chúng ta đã phá mật mã Nhật Bản gần như từ đầu cuộc chiến và chúng ta biết mật mã tới khi chiến tranh kết thúc. Nhờ thông tin đó mà ta có thể chặn và phá hủy mọi con tàu và đoàn tiếp tế tới Philippines và đảo ở Thái Bình Dương. Tôi cho rằng các nhân viên phá mật mã của chúng ta… trong chiến tranh với Nhật Bản đã làm nhiều điều để chiến tranh kết thúc thành công và kết thúc sớm như bất kỳ lực lượng nào”.
Chỉ có điều, thực tế là hơn một nửa nhân viên phá mật mã là phụ nữ thì không ai đề cập tới.